Khỉ – Vượn: Biểu thị cho nẻo hành hoạt của tâm
Kinh Tăng nhất A-hàm: nơi phẩm thứ 8: phẩm Con một, gồm 10 kinh: “Các kinh từ số 3 đến số 6 cho biết tất cả các pháp đều do tâm tạo. Tâm niệm ác đưa chúng sinh xuống địa ngục. Tâm niệm thiện đưa chúng sinh lên cõi trời, nhanh chóng như co duỗi cánh tay. Không một pháp nào nhanh nhạy hơn tâm. Giống như vượn khỉ, tâm không chuyên định, buông cái này, chụp lấy cái kia… Vì vậy hãy luôn luôn hàng phục tâm ý khiến hướng theo đường thiện”(1). Đây chắc hẳn là tư liệu – Phật điển thuộc loại xưa nhất, nguyên thủy nhất đã ví tâm như khỉ – vượn, là nguồn gốc của mọi sự nêu dẫn, diễn đạt sau này.
1- Trong tác phẩm Khóa hư lục, vua Trần Thái Tông (1218-1277) đã 3 lần nói đến “tâm vượn” ấy:
a) Nơi bài Bàn về tọa thiền, vua Trần viết: “Nếu khi ngồi thiền chẳng tắt mọi niệm, thì tâm vượn nổi dậy, ý ngựa lông bông…”. (Khóa hư lục. Sa-môn Thích Thanh Kiểm dịch, bản in 1992, tr.49).
b) Bài kệ Vô thường (thuộc phần Sám hối tội căn do mũi), tác giả Khóa hư lục nêu rõ:
Vừng hồng đà gác núi
Tấc bóng tiếc chăng ai?
Ý ngựa chạy theo mãi
Vượn tâm buông thả hoài.
Mặt trời mọc rồi lặn
Thân nổi chìm luân hồi
Già, trí ngu nào khác
Chết, nay như xưa thôi.
Vô thường khó tránh khỏi
Hạn lớn, trốn không nơi
Đạo chính, hãy theo đuổi
Rừng tà, mau xa rời.
(Băng Thanh dịch, Thơ văn Lý-Trần II,
bản in 1989, tr.191)
c) Còn đây là Chí tâm phát nguyện (thuộc phần Sám hối tội căn do ý):
– Nguyện nguồn linh thường vắng lặng
– Nguyện tạng thức hết vịn duyên
– Nguyện khối ngờ đều phá nát
– Nguyện trăng định mãi chu viên
– Nguyện pháp trần quên khởi diệt
– Nguyện lưới ái khỏi triền miên
– Nguyện tư duy tu Thập địa
– Nguyện nghe kỹ bỏ Tam thiên
– Nguyện tâm vượn đừng khua múa
– Nguyện ý ngựa tắt roi kìm
– Nguyện mở lòng theo Phật dạy
– Nguyện thích ứng Tổ sư thiền.
(Thích Thanh Kiểm dịch, Sđd, tr.168-169)
2- Cùng nói về tâm viên ý mã, Tuệ Trung thượng sĩ Trần Quốc Tung (1230-1291) viết:
Bỗng chốc theo tâm viên ý mã, tránh được sao lợi buộc danh giàm (Miết nhĩ tùy tâm viên ý mã, nan miễn lợi lụy tỏa danh cương). [Bài văn Trữ từ tự răn, Lý Việt Dũng dịch, Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục dịch giải, NXB.Mũi Cà Mau, 2003, tr.343]
Hoặc nêu dẫn tâm vượn nối kết với một công án nổi tiếng:
Pháp thân tịch diệt sắc thân còn
Đêm vắng canh khuya nhập mộng hồn
Dù chửa rong chơi Thiền Tổ vực
Cũng từng lui tới
Pháp vương môn
Biếng theo Hiền thánh vô sanh lộ
Cam chịu trời người hữu lậu hôn
Phỏng gặp tác gia bàn mối diệu
Thiên tân đâu chốn dậy hồ tôn.
(Bài Tặng Pháp sư Thuần Nhất, Lý Việt Dũng dịch, Sđd, tr.409-410)
Nguyên văn chữ Hán của hai câu cuối:
Nhược ngộ tác gia đàm diệu chỉ
Thiên tân hà xứ khởi hồ tôn?
(Bài Tặng Pháp sư Thuần Nhất, Lý Việt Dũng dịch, Sđd, tr.409-410)
Người dịch giải thích: “Hồ Tôn là tên một giống khỉ nhỏ, ám chỉ cái tâm vọng động của chúng sinh, nghĩa tương đương với tâm viên (tâm vượn). Đây là công án nổi tiếng của Thiền tông Trung Quốc… Vậy ý của Thượng sĩ muốn nói: Nếu Pháp sư Thuần Nhất được bậc Thiền sư kiệt xuất bày cho diệu chỉ trụ tâm, thì vọng động còn có chỗ nào mà dấy lên được” (Sđd, tr.412-413)(2).
Khỉ – Vượn: Ghi nhận về âm thanh
1- Tuệ Trung thượng sĩ (1230-1291) ca tụng Đạo học của vua Trần Thánh Tông (1240-1290) viết:
Thánh học cao vời suốt cổ kim
Kho rồng riêng thấu tận gan tim
Phật phong: Được báu trong tay mở
Tổ ý: Nhìn kim đáy nước chìm
Trí bạt cửa Thiền thông
Thiếu Thất
Tình siêu biển giáo át Uy Âm
Người đời chỉ thấy non sông đẹp
Ai lắng hang sâu tiếng vượn trầm.
(Trúc Thiên dịch, Thơ văn Lý-Trần II, Sđd, tr.255)
Nguyên văn chữ Hán nơi 2 câu cuối của bài thơ là:
Nhân gian chỉ kiến thiên sơn tú
Thùy thính viên đề thâm xứ thâm.
Dịch giả Trúc Thiên đã giải thích (câu cuối) như sau: Nghe tiếng vượn tự hang sâu, tức nghe âm thanh tự nơi nguồn xuất phát, ngay còn ở thể tịnh, chưa hiện hữu, chính đó là bản lai diện mục trong đạo Thiền. Nghe được như thế tức thấy tánh. (Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục, Trúc Thiên dịch, Tư thư Đại học Vạn Hạnh xuất bản 1969, tr.131).
Theo Lý Việt Dũng thì bài thơ này ca tụng đạo học của vua Trần Thánh Tông, nêu “Tiếng vượn kêu nơi chốn hang sâu” phải chỉ cho chỗ tỏ ngộ thâm diệu của nhà vua mới hợp cảnh”. Và 2 câu cuối ấy Lý Việt Dũng đã dịch:
Người đời chỉ thấy ngàn non đẹp
Tiếng vượn ai nghe vẳng động thâm.
(Sđd, tr.380)
Tiếng vượn kêu ấy người đọc còn gặp nơi bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Viếng Đại sư Tăng Điền:
Rừng xanh cửa đỏ lọ là đâu
Bất kể nơi nào dạ chả âu
Thấy hết nhân gian nghìn núi rạng
Ai hay vượn lẻ hú hang sâu.
(Lý Việt Dũng dịch, Sđd, tr.392)
2- Nguyễn Trãi (1380-1442) nơi bài thơ Ngũ ngôn bát cú viết về chùa Tiên Du, cũng đã ghi nhận cái âm thanh rất đáng chú ý kia trong cảnh sắc hoàng hôn ở một Thiền cảnh tĩnh lặng:
Bóng xế, thuyền con buộc
Vội lên lễ Phật đài
Mây về giường sãi lạnh
Hoa rụng suối hương trôi
Chiều tối vượn kêu rộn
Núi quang trúc bóng dài
Ở trong dường có ý
Muốn nói bỗng quên rồi.
(Đào Duy Anh dịch, Nguyễn Trãi toàn tập, NXB.KHXH, 1976, tr.373).
3- Đoàn Nguyễn Tuấn (1751-?): Một gương mặt thi ca khá tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII, anh vợ của thi hào Nguyễn Du (1765-1820), trong Hải Ông thi tập, cũng đã ghi nhận cái tiếng kêu độc đáo ấy, nối kết, hòa hợp với khung cảnh Thiền:
Sấm sét một đêm thành cảnh Bụt
Non song muôn thủa vững tòa sen
Suối chia hai ngọn sông
Ngân xuống
Đá tụ đôi bờ ráng đỏ in
Vượn hót tầng mây vang vọng lại
Giày đi, đạo Phật vẫn đà lên
Đường vàng bỗng hiện theo xe ngự
Sườn núi quanh co vạn ánh Thiền.
(Bài: Lại vâng lệnh vua làm 1 bài thơ để khắc vào đá. Tảo Trang dịch, Hải Ông thi tập, NXB.KHXH, 1982, tr.139)(3).
Ở một số trường hợp khác, tuy không phải là Thiền cảnh, nhưng tiếng vượn kêu vượn hú vẫn được Đoàn Nguyễn Tuấn ghi lại như một chi tiết không thể thiếu cho một hợp cảnh:
Xe dong ngựa ruổi phía ngoài đài
Oanh hót vượn kêu bên khóm trúc
(Bài Qua cửa ải 1, Sđd, tr.212)
Hoặc:
Vượn hú cửa hang tiếng đượm buồn
Trăng lên đầu núi, sương mờ tuôn…
(Bài Qua cửa ải 2, Sđd, tr.213)
Kể cả tiếng vượn kêu, hú nơi đất khách:
Nam Việt đầu xuân vùng biển nóng
Bắc Hồ thu muộn Nhiệt Hà đây
Chiếc thân trời đất bèo nênh nổi
Nửa mẫu vườn ao bóng quế đầy
Lá rụng sơn trang, ai oán vượn
Đường vua đóa thắm, thỏa chim bay
Đế đô bạn cũ giờ đâu tá?
Bốn chục năm trường uổng lắm thay!
(Bài Ở công quán Nhiệt Hà, nghĩ phiếm, Tường Luân dịch, Sđd, tr.257-258)
Hoặc:
Nơi dừng vó ngựa, bao biến cố
Vượn kêu rời động, tiếng lẫn mây
(Vô cùng sự biến đình tiên xứ
Vân lý ai đề xuất động viên).
(Bài Quá trường thành, Sđd, tr.258).
4- Phạm Thái (1777-1814), trong Sơ kính tân trang đã đặc tả về ngôi chùa Kim Sơn – nơi chốn tu trì của nhân vật Phạm Kim – vẫn không thiếu tiếng vượn hót, ở đây còn có thêm hình ảnh khỉ trèo:
Kim Sơn thắng cảnh đâu bằng
Hoa đưa chén cúc, hương lừng án thung
Mành rũ liễu, tán dương tùng
Trúc khua phách đá, lan lồng áo tiêu…
Đầu non vượn hót khỉ trèo
Cây kề cửa động hoa leo mái già
Chim gà gióng giỏi tiếng ca
Nước tuôn khe biếc khói pha lá vàng
Kinh Thủy sám, kệ Kim cương
Rảy cành cam lộ, thét gươm
Đại hùng
Úm-ma-ni bát minh hồng
Kinh vang tiếng Giác, cá giong giọng Từ
Nguyện Di Đà, niệm Tỳ Lư
Bồ-đề là đạo, Chân như ấy lòng…
(Sơ kính tân trang, câu 859-874, dẫn theo Phạm Thái và Sơ kính tân trang, Nguyễn Văn Xung giới thiệu, khảo dẫn, NXB.Lửa Thiêng, S, 1972, tr.123).
Khỉ – Vượn: Ghi nhận về hình ảnh
1- Hình ảnh vượn bồng con nghe kinh trong câu phú Nôm của Thiền sư Huyền Quang (1254-1334) đời Trần:
Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng
Vượn bồng con kề cửa nghe kinh
Nương am vắng Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu mây nhè nhẹ; kề song thưa Thầy ngồi thiền định, trăng vặc vặc, núi xanh xanh.(4)
(Bài Phú vịnh chùa Vân Yên, dẫn theo Thơ văn Lý-Trần, tập 2, Sđd, tr.711).
2- Hình ảnh vượn quỳ dâng trái trong Ngọa long cương vãn và Tư dung vãn của Đào Duy Từ (1572-1634):
Thú vui bốn thú thêm yêu
Kìa ngư nọ mục ấy tiều này canh
Hạc già chực cửa nghe kinh
Quả dâng màu thắm thức xanh vượn quỳ…
(Ngọa long cương vãn, câu 31-34, dẫn theo: Đào Duy Từ khảo biện, Đặng Quý dịch, NXB.Thanh Hóa, 1998, tr.347).
Hình ảnh “Vượn xanh dâng trái, hạc già nghe kinh” trong Tư dung vãn mới là một kết hợp hài hòa tuyệt vời nơi một Thiền cảnh:
Nghiêm thay tướng pháp Như Lai
Cao giơ tuệ kiếm sáng ngời thủy tinh
Thời lành cả mở hội lành
Reo đưa gió Phật quét thanh bụi tà
Vầy đoàn yến múa oanh ca
Vượn xanh dâng trái hạc già nghe kinh…
(Tư dung vãn, câu 171-176. Dẫn theo Đào Duy Từ khảo biện, Sđd, tr.442).
3- Thiền sư Huyền Quang (1254-1334) nơi bài Phú Nôm khá dài của mình ấy còn nói đến vượn, hạc, xem như là những hình ảnh tiêu biểu cho sự thân quen trong đời sống nơi A-lan-nhã:
Chẳng những vượn hạc thốt thề
Lại phải cỏ hoa cười thỉ.
(Chẳng những lỗi hẹn với vượn, hạc, mà còn bị cỏ hoa thầm thì cười chê – vì mình đã chen chúc nhiều năm nơi danh lợi phồn hoa, đến khi đầu hơi bạc mới hiểu! Ý của 2 câu trước)(5).
Ý tưởng hổ thẹn với vượn, hạc, cỏ hoa ở đây người đọc sẽ gặp nơi Nguyễn Trãi (1380-1442) trong bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt viết về chùa Đông Sơn:
Một niệm quân thân vướng vít hoài
Thẹn rừng tủi suối ước xưa sai
Ba mươi năm lẻ trong trần mộng
Và tiếng chim kêu tỉnh lại thôi!
(Đào Duy Anh dịch, Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.331)
4- Trúc Lâm Đại sĩ Trần Nhân Tông (1258-1308) cũng đã xem vượn khỉ là bầu bạn của mình trong cảnh sống với rừng suối:
Vượn mừng hủ hỉ
Làm bạn cùng ta
Vắng vẻ ngàn kia
Thân lòng hỷ xả…
(Bài ca Đắc thú lâm tuyền thành đạo,
dẫn theo Thơ văn Lý-Trần tập 2, Sđd, tr.533).
5- Đấy cũng là quan niệm của Tuệ Trung thượng sĩ (1230-291) khi đáp lại câu hỏi:
Gia phong của Thượng sĩ thế nào?
Đáp:
Rảnh ném trái rừng kêu vượn đón
Lười câu cá suối gọi hạc tranh.
(Lý Việt Dũng dịch, Sđd, tr.167)
Đào Nguyên
__________________
(1) Xem: Tổng quan bốn bộ A-hàm, Thích Nguyên Hùng biên soạn, NXB.Hồng Đức, 2012, tr.364.
(2) Xem thêm: Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục, Lý Việt Dũng dịch giải, NXB.Mũi Cà Mau, 2003, tr.412-413.
(3) Đoàn Nguyễn Tuấn qua tác phẩm Hải Ông thi tập đã cho thấy ông đã chịu ảnh hưởng rất đậm từ Phật giáo. Xem thêm bài viết của Đào Nguyên: Đoàn Nguyên Tuấn và Phật giáo, đăng trên Tập san Văn của Ban Văn hóa TWGH PGVN.
(4) Về nghĩa của câu đầu: Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng/ Chim gọi bạn tha hoa về cúng Phật. Xem: Thơ văn Lý-Trần II, Sđd, tr.715. Chú số 18.
(5) Xem thêm: Thơ văn Lý-Trần II, Sđd, tr.716. Chú số 36, 37.