thông qua việc chống lại sự quấy nhiễu của vương quốc Champa, trừ khử mưu đồ sử dụng Champa như là gọng kìm tấn công Đại Việt từ phía Nam của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán tộc và cũng đồng thời khẳng định sự lớn mạnh của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Các chúa Nguyễn đã tiếp tục truyền thống đó trong bối cảnh mới là áp lực quá lớn từ chúa Trịnh ở Đàng Trong và cả Trung Quốc, là sự suy yếu một cách toàn diện của hai vương quốc Champa và Chân Lạp, là sự hình thành các luồng thương mại ven biển Đông Nam Á thời bấy giờ. Kết quả là các chúa Nguyễn đã từng bước xác lập quyền lực của mình không chỉ lên vùng đất còn lại của miền Trung (tức vùng Nam Trung Bộ – từ đèo Cù Mông đến Bình Thuận) mà cả vùng đất Nam Bộ để hoàn chỉnh một đất nước Việt Nam rộng dài nhất trong lịch sử, để lại di sản lớn nhất và quan trọng nhất cho con cháu ngày nay là đất đai kéo dài đến tận Ca Mau, Phú Quốc. Thông qua một số nguồn sử liệu, bài viết này muốn hướng tới việc tìm hiểu quá trình xác lập và tổ chức quản lý vùng núi miền Trung và Tây nguyên của chúa Nguyễn.
Quá trình khai phá và xác lập các đơn vị hành chính ở Đàng Trong
Trước hết, các chúa Nguyễn đã lần lượt sáp nhập vùng đất còn lại của Trung bộ vào lãnh thổ của mình. Năm 1597, Nguyễn Hoàng đã sai Phù Nghĩa Hầu Lương Văn Chánh đem lưu dân từ huyện Tuy Viễn vào khai phá từ đèo Cù Mông đến đèo Cả, từ thượng nuồn đến cửa biển. Ở đây, ông đã cho lập làng mạc, khai khẩn đất hoang, dời dân đến ở, chia lập thôn ấp và lập điền bộ để thu thuế.
Năm 1611, nhân một số người Champa quấy rối, Nguyễn Hoàng sai Văn Phong đem quân đi đánh, lấy đất bên kia đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi đặt làm phủ Phú Yên, gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa.
Năm 1653, vua Chiêm là Bà Tấm xâm lấn Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần sai Cai cơ Hùng Lộc làm thống binh thống lãnh 3000 quân đi đánh. Bà Tấm bỏ chạy, quân Nguyễn liền chiếm đất đến sông Phan Rang. Phần đất này được đặt làm dinh Thái Khương (sau này đổi thành phủ Thái Khương – tức Khánh Hòa ngày nay). Việc quả lí dinh Thái Khương được giao cho Hùng Lộc đảm nhiệm (1).
Năm 1692, vua Chiêm là Bà Tranh lấn cướp phủ Diên Ninh của dinh Thái Khương, chúa Nguyễn Phúc Chu Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh làm thống binh đem quân trấn áp. Tháng Giêng 1693, quân chúa Nguyễn bắt được Bà Tranh sáp nhập nước Chiêm vào lãnh thổ nước ta, đặt làm trấn Thuân Thành. Năm 1697, chúa Nguyễn dặt phủ bình Thuận, lấy đất từ Phan Rang, Phan Rí, trở về phía Tây, chia làm hai huyện An Phước và Hòa Đa cho đất thuộc vào đất chúa Nguyễn (2).
Đồng thời với việc sáp nhập Nam Trung Bộ, các chúa Nguyễn sử dụng phương pháp hòa bình và trấn áp bằng quân sự, đặc biệt là phương pháp hòa bình để sáp nhập vùng đất Nam Bộ vào lãnh thổ nước ta từ năm 1620 đến 1757.
Bên cạnh đó, các chúa Nguyễn đã có nhiều chính sách để khai phá lãnh thổ xứ Đàng Trong. Họ đã sử dụng nhân lực là các thành phần cư dân, quan lại, địa chủ, dân nghèo, binh lính, nô tì… người Việt, quan lại, binh sĩ người Hoa tỵ nạn chính trị, các tộc người bản địa tại chổ như người Chăm, Bana, Êđê, Raglai, Churu, Khmer, Mạ, Stiêng… để khai phá vùng đất mới. Như tác giả Li Tana đã viết: “Có thể nói, vùng đất cực Nam thoạt đầu đã được coi là nơi nhà Hậu Lê đày các phạm nhân. Lịch triều hiến chương loại chí viết là từ năm 1474, chính quyền nhà Lê quyết định đưa phạm nhân tới vùng trước đây thuộc vùng đất Champa. Kẻ tội nhẹ thì đưa tới Thăng Hoa. Kẻ tội nặng hơn được đưa đến tư Nghĩa. Hoài nhơn là vùng xa nhất để đày tư nhân. Đất phía nam này cũng còn là nơi trú ẩn của các kẻ tỵ nạn” (3).
Đối với vùng Thuận Quảng từ thế kỉ XVIII, cư dân Việt thuộc các thành phần trên đã vào vùng Nam Bộ và Nam Trung Bộ khai phá đất đai. Theo Phú biên tạp lục của Lê Quý Đôn: Thuận Hóa có 126.857 dân binh các loại. Quảng Nam có 95.731 dân binh các loại (4). Trên đất Thuận Quảng thế kỉ XVI đã tồn tại 1226 xã, thôn và đến năm 1774, riêng Thuận Hóa đã có 882 xã, thôn, phường, vùng Quảng Nam giữa thế kỷ XVIII có 16 huyện và nhiều thuộc (5).
Đối với vùng phía Nam Thuận Quảng, cư dân từ vùng Trung Bộ vào khai phá, đặc biệt là người Hoa và phần lớn cư dân Champa và Chân Lạp đã ở lại chung sống với người Việt. Nhờ những lực lượng đông đảo đó mà cho đến giữa thế kỉ XVIII, vùng đất này đã: “Hình thành 11 huyện và 1 châu với hàng trăm xã, thôn, phường, nậu và 69.338 dân binh” (6).
Song song với việc tổ chức khai phá lập làng, các chúa Nguyễn từng bước hoàn chỉnh bộ máy tổ chức Đàng Trong. Thời kì Nguyễn Hoàng, Thuận Hóa có 2 phủ, 9 huyện, 3 châu. Phủ Tiên Bình có 3 huyện: Khương Lộc, Lệ Thủy, Minh Linh và châu Bố Chính; phủ Triệu Phong có 6 huyện: Vũ Xương, Hải Lăng, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vinh, Điện Bàn và 2 châu: Thuận Bình và Sa Bồn. Quảng Nam có 3 phủ, 9 huyện. Phủ Thăng Hoa có 3 huyện: Lê Giang, Hà Đông, Tư Giang; phủ Tư Nghĩa có 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hoa, Nghĩa Giang; phủ Hoài Nhân có 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn.
Về quan chức, đầu thời chúa, Phủ biên tạp lục (tr.147,148) cho biết xứ Thuận Hóa: “Mỗi phủ, huyện, châu thì Đề đốc, Đề lãnh, phủ Ký lục, phủ Thư ký, mỗi chức một viên, Cai trị 3 viên, phủ thư ký 3 viên, huyện Thư ký 3 viên, Duyệt lại 3 viên, mỗi tổng Cai tổng 2 viên, mỗi thuộc và tổng Bái Trời thì Cai thuộc 1 người, Cai thuộc 1 người, duyệt lại 1 người”. Còn ở xứ Quảng Nam, các chúa Nguyễn cũng đã: “Mỗi phủ thì Chánh hộ, Khám lý, Đề đốc, Đề lãnh, phủ Kí lục, phủ Thư ký mỗi chức một viên, huyện Thư ký một viên, Duyệt lại 2 viên”. Mặt khác, bên cạnh việc đặt ra phủ huyện thì “các nơi gần rừng núi dọc biên, các chúa đã đặt làm đơn vị Thuộc cho các phường thôn, nậu man lẻ tẻ lệ vào, đặt nhân viên cai ấp cũng gần giống các tổng”. Năm 1638, Nguyễn Phúc Lan đặt thêm chức Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu cao nhất ở Chính dinh, còn các dinh ở ngoài thì tùy theo công việc mà đặt quan chức mà không đầy đủ như Chính dinh.
Đến thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) đã hoàn chỉnh việc chia cắt phủ huyện trên toàn cõi miền nam. Năm 1774, Đàng Trong chia ra là 12 dinh và 1 trấn. Từ bắc vào nam, đó là Bố Chính dinh, Quảng Bình dinh, Lưu Đồn dinh, Cựu dinh, Chính dinh, Quảng Nam dinh, Phú Yên dinh, Bình Khang dinh, Bình Thuận dinh, Trấn Biên dinh, Trấn Biên dinh, Long Hồ dinh và Hà Tiên trấn.
Tổ chức quản lý vùng núi phía Tây miền Trung
Vùng núi phía Tây Trung bộ thời các chúa Nguyễn bao gồm vùng Thuận Quảng (ngày nay bắc Bố Chính đến đèo Cù Mông) và phía Tây các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Tuy nhiên, việc quản lý của chúa đối với vùng núi tây Thuận Quảng chặt chẽ hơn so với vùng núi Nam Trung Bộ. Ở những vùng núi này, để quản lý dân cư và xác lập quyền lực của mình, họ Nguyễn đã tổ chức một hình thức đơn vị hành chính đặc biệt gọi là “Nguồn” tại các dinh. Các nguồn nằm ở thượng lưu các con sông chảy từ núi rừng phía Tây ra biển Đông. Quy mô các nguồn không giống nhau, nhưng tất cả đều là đơn vị hành chính xa nhất về phía Tây của các địa phương. Lê Quý Đôn đã nhận định: “Ở thượng lưu gọi là nguồn cũng như ở hạ lưu gọi là tổng”. Dọc từ Bố Chính trở vào có các nguồn lớn sau: Kơ sa, Kim Linh (Bố Chính); Cẩm Lý, An Náu, An Đại (Quảng Bình); nguồn O (thượng lưu sông Bến Hải); nguồn Sái phía tây Cam Lộ; nguồn Tôi ôi, Viên Kiều, Ba Hy, Tầm Ngầm (thượng lưu sông Thạch Hãn); nguồn Sơn Bồ (Quảng Điền); Tả Trạch, Hữu Trạch (Hương Trà); Phù Âu, Hưng Bình (Phú Vang). Dinh Quảng Nam có nguồn Cu đơ, Lỗ Đông, O Da, Thu Bồn, Chiên Đàn (phủ Thăng Hoa); nguồn Bà Rịa, Ba Tơ, Cù Bà, Cây Mít, Bà Bồng (phủ Quảng Ngãi), Hà Nghiên, Trà Dinh, Trà Văn, O Kim, Cầu Bòng, Đá Bàn (phủ Bình Định). Dinh Phú Yên có các nguồn: Hà Di, Nam Bàn, Đá Bạc, Suối Gạo, An Lạc. Dinh Bình Khang có các nguồn Đồng Hương, Đồng Nhân, Nha Trang (7).
Các nguồn là nơi có nhiều tài nguyên lâm sản, thổ sản, khoán sản quí gia. Nhận biết thế mạnh đó, ngay từ đầu họ Nguyễn đã biết tận dụng và khai thác “Nguồn Cơ Sa ở châu Bố Chính sản xuất ngà voi, màn hoa, lụa, mật ong, sáp vàng, gỗ lim, tầm trúc…Nguồn Cảo Cảo ở châu Sa Bôi sản xuất ngà voi, màn hoa, trầm hương, bạch truật, mộc hương, bông vải…(8). Nguồn Phù Âu… chúa đặt hộ đãi vàng gọi là liêm hộ, … mỗi năm phải nộp 2 hoặc 3 đồng cân vàng sống… Nguồn Thu Bồn mỗi năm nạp 38 lượng 3 đồng 1 phân vàng, nguồn Lỗ Đông mỗi năm nạp 70 lạng bạc…" (9)
Về hệ thống quan chức quản lý, đối với các động, sách “Mọi”, có đặt quan, thường là một viên Cai đội để chăm nom và thu thuế dân Mọi và người Việt lên buôn bán ở xứ Mọi…Để vỗ về thu phục và khuyến khích dân Mọi, các viên chức phụ trách được quyền trích tiền thuế để đãi đằng, yến tiệc với người Mọi, cho họ đồ đạc, hàng lụa… (10)
Họ Nguyễn coi các nguồn là nơi biên cương cần được bảo vệ, họ đã tổ chức một lực lượng đáng kể để trấn giữ. Đó là các sở Thủ ngự (hay Lưu thủ), các đồn của vệ quân và đặc biệt là các sở Tuần ty để quản lý trị an, thu thuế, thu cống, chống lại sự cướp phá của các sách Man miền núi. Chẳng hạn, ở xã Cam Lộ (Quảng Trị), một trung tâm giao thương lớn thông với nhiều sách Man phía Tây, một số sở Tuần ở các nguồn được ra đời như: sở tuần Hiếu Giang, sở tuần Cây Lúa, sở tuần Ngưu Cước.. “từ xã ấy đi vào một ngày đến phường An Khang, có tuần gọi là Ba Giăng, cũng gọi là đồn Hiếu Giang,… từ tuần đi một ngày rưỡi đến bờ sông đại giang thuộc địa giới nước Ai Lao, họ Nguyễn đặt dinh đóng quân 6 thuyền ở đấy gọi là dinh Ai Lao. Phía Hữu sông xã Cam Lộ có tuần Cây Lúa… phía tả tuần Hiếu Giang có tuần Ngưu Cước (chân trâu)…” (11).
Chúa Nguyễn cũng đặt ra các qui định kiểm soát việc đi lại. Ai muốn đi vào các sách Man đều phải được phép của Cổn quan (quan trông coi các sách phía Tây), phải đăng ký tại sở tuần hoặc thủ ngự số ngày đi, ngày về…như một loại giấy thông hành. “Nguồn Sơn Bồ ở đầu nguồn huyện Quảng Điền có 17 sách dân Man thượng…họ Nguyễn trước sai Lê Minh Đức làm Cổn quan trông nom… Dân miền xuôi muốn lên đầu nguồn sinh sống đều phải trình đội trưởng thì mới cho đi, hẹn kì nộp thuế và không được quá kỳ hạn…” (12). Việc trấn giữ các Nguồn hay quan ải là chức phận của các quân dinh và thổ binh đủ sức trấn áp các thế lực bên kia biên giới hoặc thổ phỉ gây náo loạn trật tự trị an vùng biên…
Tổ chức quản lý vùng ven Trường Sơn – Tây Nguyên
Tây Nguyên tiếp giáp với vùng núi phía Tây vùng Trung và Nam Trung bộ hợp thành một vùng địa chính trị kinh tế phức tạp và đa dạng. Vùng này vốn là địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số, họ Nguyễn đã biết đến các tộc người thiểu sống sinh sống cách xa các nguồn tới hàng chục ngày đường bộ và được goi với các tên là “man Đá Vách”, “Thủy Xá”, “Hỏa Xá”.
“Man Đá Vách” chủ yếu là người của hai dân tộc Bana, Xê đăng sinh sống ở phía Tây các phủ Quảng Ngãi, Bình Định của dinh Quảng Nam. Cuộc sống của đồng bào ở đây luôn không ổn định, họ thường tổ chức những cuộc cướp bóc xuống vùng đồng bằng, hay những cuộc di dân chạy trốn cuộc chiến tranh do Chiêm Thành gây ra. Vì vậy, tình hình an ninh ở đây luôn mất ổn định. Trước khi Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm, Bùi Tá Hán được cử vào làm Trấn thủ xứ Quảng Nam. Vốn là một nhà cai trị cương trực và lỗi lạc. Ông đã từng bước ổn định tình hình ở đây, giải quyết tốt cuộc nổi dậy của đồng bào Thượng “loạn Đá Vách”. Đồng thời, ông đã đưa ra chương trình hành động lớn mà các chúa Nguyễn sau đó thường xuyên cho thực thi chính sách này.
– Tổ chức dinh điền và đồn điền, di dân lập ấp trên vùng sơn cước.
– Mở rộng sự liên lạc, buôn bán với người Thượng, cho phép thương lái lên buôn bán trên vùng cao nguyên.
– Cho phép nông dân và tiều phu lên vùng Thượng làm ăn sinh sống và sinh cơ lập nghiệp.
– Tiến cử các vị tù trưởng, thân hào Thượng và xin tấn phong cho hai vị phiên vương Thủy Xá và Hỏa Xá.
– Gây ý thức quốc gia, dân tộc cho người Thượng, khuyến khích người Thượng tham gia vào các công việc quốc gia.
– Đặt ra chức giao dịch địa phương để đặc trách trông nom một vùng sơn cước. Mỗi vùng chia ra 4 nguyên, mỗi nguyên có một cai quan và một số cổn quan phụ tá cai trị. Những cai quan sẽ chọn lựa một số thương hồ để đi lại giao dịch và thu thuế trên miền Thượng (13).
Với chính sách trên, Bùi Tá Hán đã thành công trong suốt nhiệm kỳ của ông ở vùng Nam – Ngãi – Bình luôn được yên ổn, mối giao hảo giữa Kinh và Thượng càng mật thiết hơn. Sau đó, các chúa Nguyễn tiếp tục dùng chính sách mềm dẻo để nhằm ổn định và thu phục dần các cộng đồng người này, tiến tới sáp nhập phần lãnh thổ này vào Đại Việt mặc dù công việc sáp nhập chưa thành công thời các chúa.
Năm 1711, chúa Nguyễn Phúc Chu cử viên Ký thuộc Kiêm Đức, thạo tiếng nói và phong tục “man dân”, từ phủ Quảng Ngãi đi ngược phía Tây đem hàng hóa, quà cáp chiêu dụ các bộ lạc ở Trà Lai (Gia Lai) khiến dân ở đây chịu tuân theo thể lệ của chúa Nguyễn. Chúa đã áp dụng kế hoạch trấn man hay sơn phòng trấn để qui tụ họ thành từng “thuộc” và đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của phủ chúa.
Đến thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát gặp những năm mưa lụt đói rét, người Đá Vách nhiều phen tràn hẳn xuống vùng đồng bằng Nam – Ngãi – Bình cướp phá. Triều đình phái quân đi đánh dẹp mà không xong. Mùa xuân năm 1760, Nguyễn Phúc Khoát bổ nhiệm Nguyễn Cư Trinh làm Tuần phủ Quảng Ngãi với trọng trách bình định giặc Đá Vách. Mới đầu Nguyễn Cư Trinh dùng phương pháp phủ dụ nhưng bất thành, bàn đến cách dụng binh thì quan quân cũng như quân sĩ lo sợ vùng Thượng hiểm nguy, khí độc. Ông cho lập “Quảng Ngãi đồn dinh” với 16 đạo binh lo việc canh phòng, lại cho cất trại, mở đồn điền làm kế ở lâu. Người Đá Vách thấy thế hoảng sợ ra đầu thú, ông vỗ về an ủi và tính kế lâu dài cho họ. Tiếp đó, ông cho lập chương trình giải quyết vấn đề sinh kế cho đồng bào Đá Vách, tổ chức lại đồn điền và định cư dân Thượng. Mùa đông năm 1751, ông dâng sớ bày tỏ nỗi khổ của thổ dân và yêu cầu nhà cầm quyền tùy thời để giữ lòng dân. … (14)
Tiếc rằng bài sớ của ông dâng lên không được xét đến nên ông đệ đơn từ chức và cũng vì những tệ tích còn duy trì nên giặc loạn còn kéo dài và ngày càng ác liệt. Những làng xóm được thiết lập ở vùng thượng và cận sơn trong 200 năm yên ổn khi xưa phải tản cư về vùng đồng bằng. Cho đến năm 1770 Khâm sai Trần Ngọc Chu mới dẹp xong loạn, đẩy giặc về miền núi, cũng cố các đồn dọc theo biên giới. Như vậy, với chính sách “nhu viễn” tích cực của Bùi Tá Hán và Nguyễn Cư Trinh đã từng bước ổn định tình hình khu vực và ảnh hưởng của các chú Nguyễn là rất lớn.
Vùng Tây Nguyên trong thời gian tồn tại của vương quốc Champa và Chân Lạp chính là khu vực đệm, là vùng tranh chấp giữa hai vương quốc này. Không phát triển thành Nhà nước tập quyền các quốc gia khác trong khu vực, các cộng đồng cư dân Tây Nguyên trước sức ép của ngoại bang chỉ có thể chấp nhận đồng hóa hoặc rời bỏ đất đai của mình để hình thành những tiểu quốc có thể trong tình trạng độc lập hay tự trị phụ thuộc vào các quốc gia khác. Có thể khẳng định rằng các chúa Nguyễn chưa thật sự xác lập được quyền lực lên vùng Tây Nguyên mà chỉ buộc được các “ngoại quốc” (từ dùng của Quốc sử quán triều Nguyễn) Thủy Xá, Hỏa Xá theo lệ đến triều cống với tư cách là các phiên vương mà thội. Dưới thời chúa, quan hệ triều cống giữa các phiên vương ở cao nguyên mà chủ yếu là Thủy Xá và Hỏa Xá luôn được tiến hành.
Cư dân vùng này chủ yếu là các tộc người Mnông, Êđê, Raglai, Bana. Từ thế kỷ XVIII, đi bộ từ nguồn An Lạc (thuộc dinh Phú Yên) mất khoảng 14 ngày thì tới Thủy Xá, Hỏa Xá nước Nam Bàn (15). Nước ấy có hơn 50 thôn. Đời sông cư dân ở đây “gác cây làm nhà, cày bằng dao, trồng bằng lửa, tháng giêng gieo, tháng năm lúa chín, không gặt mà chỉ tuốt, không biết ngày tháng” (16).
Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá, hai vị thủ lĩnh của Thủy Xá và Hỏa Xá đã chịu thần phục các chúa Nguyễn ở Huế. Cứ 5 năm một lần hai vị thủ lĩnh này mang cống vật đến tỉnh Phú Yên. Cho đến cuối thế kỷ XIX các vị Thủy Xá và Hỏa Xá vẫn giữ cống phẩm đến triều đình Huế. Đại Nam liệt truyện viết “Bản triều (tức thời chúa Nguyễn) buổi đầu cho là địa giới giáp Phú Yên, nên 5 năm một lần sai người tới nước đó cho các phẩm vật (áo gấm, mũ gấm, nồi đồng, sanh đồng, và đồ sứ như chén dĩa …), hai nước được ban cho tức thì đem các phương vật (kỳ nam, sáp vàng, lộc nhung, mật gấu và voi đực) sang dâng” (17).
Đại Nam thực lục tiền biên viết năm Tân Mão 1711, đời chúa Nguyễn Phúc Chu, Đôn vương và Nga vương ở Nam Bàn và Trà Lai (sau gọi là Jarai, giáp giới Phú Yên và Bình Định), sai sứ dâng sản vật địa phương và trình bày rằng dân họ không chiụ đóng thuế nên không biết lấy gì để cống… Chúa cho Ký thuộc là Kiêm Đức đem thư đến hiểu dụ những tù trưởng, cho họ áo sa áo và đoạn và đồ đồng, đồ sứ, lại lấy nghĩa kẻ trên người dưới khuyên bảo dân Man… người Man không ai không theo mệnh (18). Năm Tân Mùi 1751, đời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát “Thủy Xá và Hỏa Xá vào cống… vua hai nước ấy nhận được vật cho, tức thì sắm sửa sản vật địa phương hiến chúa, chúa ban thưởng rất hậu.Trong khi đó, trong một nguồn tư liệu khác, theo tài liệu của triều Nguyễn, con cháu của họ Nguyễn vào Quảng Bình lập nghiệp giữa thế kỷ XVI chúa Nguyễn đã phong cho vua Thủy Xá và Hỏa Xá một chức quan “Tam phẩm võ quan” (19). Như vậy dưới thời các thời chúa Nguyễn, Tây Nguyên ngày càng có quan hệ mật thiết hơn với Đại Việt. Ngoài ra các chúa Nguyễn còn rất tích cực đưa cư dân người Việt lên khai phá và lập nghiệp tại Tây Nguyên. Qua đó, giúp cho các dân tộc ngày càng hiểu nhau hơn mà một trong những dẫn dụ tiêu biểu chính là tổ tiên dòng họ Hồ của anh em Tây Sơn sau này.
Vài lời kết luận
1. Các chúa Nguyễn đã cùng với dân tộc Việt Nam hoàn chỉnh công cuộc Nam tiến khi tiếp tục mở mang lãnh thổ về phía Nam, sáp nhập vùng đất Nam Trung Bộ và Nam Bộ vào lãnh thổ nước ta, để lại một trong những di sản quí báu nhất cho các thế hệ hôm nay là đất đai. Trong đó vùng miền Trung Tây Nguyên là thành quả của công cuộc Nam tiến trước đó và được kết thúc thời các chúa Nguyễn.
2. Các chúa đã từng bước xác lập quyền lực bằng cách tổ chức các đơn vị hành chính không chỉ trên vùng đất Thuận Quảng mà cả Nam bộ, đặc biệt đối với vùng đất phía Tây miền Trung, các chúa đã có những tổ chức, những đơn vị hành chính đặc biệt là nguồn, thuộc; đồng thời tổ chức các sở Tuần ty tương đối đặc biệt khác với Đàng Ngoài và đã bước đầu mang lại hiệu quả cao trong công tác quản lý trị an, thu thuế, thu cống phẩm và góp phần bảo vệ biên cương phía Tây.
3. Đối với vùng ven dãy Trường Sơn – Tây Nguyên, mặc dù chưa xác lập được quyền lực thực sự của mình lên vùng Tây Nguyên nhưng với chính sách “nhu viễn” truyền thống, với việc cử các quan lại có năng lực đến vỗ về yên ủi, cộng đồng cư dân vùng này đã trở thành cư dân phiên thuộc của chúa, đánh bật được sự khống chế của các “vương quốc” trong vùng Đông Nam Á lên vùng đất Tây Nguyên; đồng thời bước đầu tạo nên mối quan hệ cộng đồng Kinh – Thượng, đặt nền tảng cho các triều đại sau xác lập quyền lực lên vùng này mạnh mẽ và hiệu quả hơn.
N.V.Đ
* Chú thích:
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn (1962), Đại Nam thực lục tiền biên, Bản dịch Viện Sử học, NXB Sử học, Hà Nội, tr. 83
(2) Quốc sử quán triều Nguyễn (1962), Đại Nam thực lục tiền biên, Bản dịch Viện Sử học, NXB Sử học, Hà Nội, tr. 153
(3) Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, NXB Trẻ, tr.29
(4) Lê Quí Đôn toàn tập (1977), Tập 1, Phủ biên tạp lục, Bản dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.136
(5) Trương Hữu Quýnh (cb) 2000, Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập 1, NXB Giáo Dục, tr. 360.
(6) Trương Hữu Quýnh (cb) 2000, Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập 1, NXB Giáo Dục, tr.361
(7) Lê Quí Đôn toàn tập (1977), Tập 1, Phủ biên tạp lục, Bản dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 204-215.
(8) Nguyễn Minh Đức, “Chính sách ngoại thương ở Đàng Trong thế kỷ XVI-XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 274, tr.97
(9) Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong (1558-1777), NXB Văn Học, tr. 386-387.
(10) Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong (1558-1777), NXB Văn Học, tr. 400-401.
(11) Lê Quí Đôn toàn tập (1977), Tập 1, Phủ biên tạp lục, Bản dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 206
(12) Lê Quí Đôn toàn tập (1977), Tập 1, Phủ biên tạp lục, Bản dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 210-211
(13) Toan Ánh – Cửu Long Giang (1970), Cao nguyên miền Thượng, NXB Sài Gòn, Sài Gòn, tr. 91.
(14) Toan Ánh – Cửu Long Giang (1970), Cao nguyên miền Thượng, NXB Sài Gòn, Sài Gòn, tr.95.
(15) Đây là một trong 3 tiểu quốc mà Lê Thánh Tông sau cuộc chinh phạt năm 1471. Ông đã chia vùng đất còn lại của Champa thành 3 tiểu quốc: Hoa Anh (tương đương vùng Phú Yên, Khánh Hòa), Nam Bàn (ở phía Tây Hoa Anh) và Chiêm Thành (ở phía Nam 2 tiểu quốc trên – vùng Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay)
(16) Lê Quí Đôn toàn tập (1977), Tập 1, Phủ biên tạp lục, Bản dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.122
(17) Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Đại Nam liệt truyện, Tập 2, Bản dịch, NXB Thuận Hóa, Huế, tr.586-587
(18) Quốc sử quán triều Nguyễn (1962), Đại Nam thực lục tiền biên, Bản dịch Viện Sử học, NXB Sử học, Hà Nội, tr. 172.
(19) Lương Thanh Sơn (2004), “Vua lửa và vua nước”, Tạp chí Xưa Nay, số 224, tr.16 – 17.
Tài liệu tham khảo chính:
1. Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Toan Ánh – Cửu Long Giang (1970), Cao nguyên miền Thượng, NXB Sài Gòn, Sài Gòn.
3. Phan Văn Bé (1993), Tây Nguyên sử lược, Hội giáo dục lịch sử thuộc Hội sử học Việt Nam, Hà Nội.
4. Lê Quí Đôn toàn tập (1977), Tập 1, Phủ biên tạp lục, Bản dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Lê Công Hương (2002), “Lịch sử Tây Nguyên và những vấn đề quan hệ trong khu vực”, Kỷ yếu hội khoa học thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII – XIX, Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh.
6. Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong (1558-1777), NXB Văn Học.
7. Quốc sử quán triều Nguyễn (1962), Đại Nam thực lục tiền biên, Bản dịch Viện Sử học, NXB Sử học, Hà Nội.
8. Quốc sử quán triều Nguyễn (1963), Đại Nam liệt truyện, Tập 2, NXB Thuận Hóa, Huế.
9. Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) (2005), Văn hoá làng miền núi Trung Bộ Việt Nam, giá trị truyền thống và những bước chuyển lịch sử, NXB Thuận Hoá, Huế.