Trang chủ Thiền môn xứ Huế Chùa -Tháp Chùa Ưu Đàm

Chùa Ưu Đàm

239
0

Chùa quay mặt về hướng chính Nam, trước mặt lấy cánh đồng ruộng lúa xanh tươi bát ngát làm tiền án, sau lưng có con sông Ô Lâu huyền thoại ôm lấy làm hậu chẩm. Chùa được xây dựng từ thời nào đến nay chưa có sách sử nào ghi lại. Theo truyền thuyết của dân làng kể lại thì vào khoảng thế kỷ thứ 16, khi chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp, bình định và vỗ an dân chúng, hầu hết các làng xã đồng loạt xây chùa dựng tượng để con dân sinh hoạt tín ngưỡng, ổn định tinh thần mà chăm lo làm ăn, chùa Ưu Đàm cũng ra đời trong thời điểm đó. Nhưng theo sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An viết năm 1555 trong chương Phong Tục nhắc đến chùa Ưu Đàm một câu rằng “Am Ưu Đàm nở nhiều hoa Bát la” thì chắc chắn chùa nầy có trước thời chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp.






Trải qua thời gian chiến tranh, chùa được tu sửa nhiều lần. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí mục chùa quán thì đến năm Minh Mạng thứ 2, Tân Tỵ (1821) chùa được nhà vua ban chiếu, cấp bổng lộc để trùng tu. Năm 1954 chùa lại bị bom đạn làm hư hại và xuống cấp, con dân trong làng đã góp công góp của xây dựng lại bằng bê tông cốt thép theo mô hình kiến trúc kiểu chữ Công gồm tiền đường, chánh điện, và hậu liêu như mẫu chùa Từ Đàm cũ với chất liệu rất hiện đại kiên cố có diện tích mặc bằng khoảng 250m2 trên tổng diện tích vườn chùa khoảng 8000m2. Trong những năm trở lại đây, khi chùa đã xuống cấp, thêm vào đó nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của con dân trong làng ngày càng phát triển, nên đòi hỏi chùa phải có sự chỉnh trang cho phù hợp, các con dân trong làng đi làm ăn xa, cùng với những Việt kiều đồng hương đã thấu hiểu được gởi tiền về trùng tu.






Tính từ năm 1995 cho đến nay, mặc dầu chùa không đại trùng tu, nhưng đã chỉnh trang, sửa chữa, làm mới một số hạng mục. Những công trình có giá trị như chánh điện, cổng tam quan, đài Quan Âm, Đoàn quán Gia đình Phật tử, nhà ở, tường thành…tất cả đã trở thành một hệ thống kiến trúc kiên cố và khang trang hơn rất nhiều.






Nhưng cũng rất may, qua nhiều lần trùng tu, chùa vẫn bảo lưu được một số cổ vật, pháp bảo cũng như những di chỉ xưa quý rất có giá trị văn hoá và khảo cổ như bộ tượng Bồ tát Di Lặc và Quán Âm cổ Phật được nắn bằng đất sét nhồi trấu, nồng tre sơn thếp vàng rất đẹp. Đáng chú ý hơn hết là di chỉ Chăm-pa gồm một tượng nữ thần XiKa, bức phù điều vũ nữ cũng như trụ đá Linga và biểu tượng tiểu thực khí của Totem giáo… đã gây được sự chú ý và quan tâm của nhiều ban ngành của BTS cũng như của chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế. Để bảo quản tốt những di vật nầy, năm 1995 Ban Hộ tự đã cho quy tụ, và xây dựng tôn trí tượng và các phù điêu, cổ vật trên một ví trí khu đất 50m2 sát bên tả chùa, dân làng gọi đó là Am Bà Phật Lồi. Hằng năm, có các đoàn khảo cổ từ cấp trung ương đến cấp tỉnh cũng như các giáo sư tiến sĩ nước ngoài đến tìm hiểu khảo sát, đã có nhiều vị báo cáo lại với dân làng đó là Thánh địa Chăm lớn thế kỷ thứ nhất của Chiêm Thành có diện tích rộng chừng 2.000m2.






Tất cả những cổ vật, pháp bảo xưa quý trên của chùa hiện vẫn còn rất nguyên trạng và được bảo quản tốt. Chỉ có tượng nữ thần XiKa đã bị biến dạng qua nhiều “sự cố”, nguyên tượng nầy được tạc bằng sa thạch, nhưng qua thời gian bảo quản, người ta đã cho sơn son thếp vàng, những năm 1975 đến 1980 những “đạo tặc” tưởng là vàng thật nên đã đến cưa tay, và thậm chí cưa đầu, nhưng may thay, tượng bằng đá nên đám ăn cắp đã  đem trả lại cho chùa. Mặc dầu vậy, giá trị nguyên bản của pho tượng đã không còn.






Ngoài tên chữ của chùa là Ưu Đàm, chùa còn có tên dân gian là chùa Bà Lồi, hay chùa Lồi. Giải thích về các tên này, dân làng kể lại đều có nguồn gốc từ một sự tích của pho tượng Bà Lồi, tức tượng nữ thần XiKa: Tên Ưu Đàm xuất phát từ một loài hoa Ưu Đàm bát (Udumbara) một loài hoa quý hiếm, tương truyền 3000 năm mới xuất hiện một lần, hoa xuất hiện thì kim luân vương xuất hiện. Các bô lão thủa ấy lấy cớ làng Ưu Đàm có Phật Lồi được ví như Phật xuất thế nên đặt tên làng và tên chùa là Ưu Đàm, và xuất phát từ câu chuyện tượng Bà Lồi nên chùa còn được dân gian gọi là chùa Bà Lồi, hàng năn vào mùa lũ lụt, con dân trong làng đều tập trung lên chùa để tránh lụt, họ phát hiện chùa chưa hề bị nước ngập và hình như nước càng lên thì chùa cũng nổi theo, nên từ đó chùa còn được gọi là chùa Lồi.


Chùa Ưu Đàm ngày nay là một trong những ngôi chùa được xếp vào hạng di tích lịnh sử, đồng thời trên bảng đồ du lịch của sở Du lịch Thừa Thiên Huế đã có mô hình và bảng chỉ đường cho khách tham quan tìm đến. Hy vọng rằng, trong thời gian đến, chùa Ưu Đàm sẽ được con dân trong làng tiếp tục giữ gìn và bảo quản tốt.




 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


Chùa Ưu Đàm – Ưu Điềm – Phong Điền – TT.Huế



 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


Tượng Bà Phật Lồi

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here