Trang chủ Nghiên cứu – Trao đổi Cách nhìn về mê tín dị đoan theo khuyến giáo của Đức...

Cách nhìn về mê tín dị đoan theo khuyến giáo của Đức Đệ nhất Pháp chủ GHPGVN

103
0

Hiện nay, mê tín dị đoan là một tệ nạn xã hội có điều kiện, cơ ngơi và môi trường lan truyền cao và nhanh trong dân gian và có thể xem như là một hiện tượng tiêu cực, nếu không muốn nói là làm nhức nhối con tim đối với những người quan tâm về sự suy thoái niềm tin. Cố Đại lão Hòa thượng THÍCH ĐỨC NHUẬN (1897-1993), Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã từng ân cần ngỏ lời dặn ân cần đến tín đồ Phật giáo phải tìm cách ngăn chặn và bài trừ.

Thông điệp của Hòa thượng Pháp chủ ấn ký ngày 01/5/1993 gửi Tăng Ni, Phật tử toàn quốc nhân dịp Lễ Phật Đản, PL 2537 có đoạn viết:  “Ngày nay, đất nước ổn định, phát triển, Phật giáo ta lại có cơ duyên hoằng truyền Phật pháp làm cho giáo lý của đức Phật được tỏa sáng trong nhân gian, bài trừ mê tín dị đoan, góp phần xây dựng cuộc sống an lạc cho quê hương xứ sở”.

Tệ nạn xã hội này bánh trướng tràn lan thì sẽ trở thành một hiểm họa cho đất nước Văn hiến lâu đời đang ra sức cổ xúy cho văn hóa du lịch tâm linh, mời gọi du khách nước ngoài đến Việt Nam tham quan, du lịch và nghiên cứu những di tích văn hóa đa dạng và phong phú khắp cả 3 miền Bắc – Trung – Nam nước Việt. Luận bàn về mê tín dị đoan theo lời căn dặn thiết tha thiết thực của Đức Pháp chủ cũng còn là cơ duyên để tưởng niệm và tưởng nhớ những lời dạy quý báu vì ân đức lớn lao của Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Khuôn khổ hạn định của bài tham luận chỉ cho phép người viết gợi mở 3 tiểu mục cơ bản và trọng yếu liên quan đến việc bài trừ mê tín dị đoan:

    – Thứ nhất: Nội hàm của mê tín dị đoan
    – Thứ hai: Ngăn chặn và bài trừ hủ tục, phát huy thuần phong mỹ tục
    – Thứ ba: Hoằng dương giáo lý của đức Phật tỏa sáng trong nhân gian.

*
*    *

I. NỘI HÀM CỦA MÊ TÍN DỊ ĐOAN

Lẽ tất nhiên không thể nào nói tiêu diệt, xóa sạch mê tín dị đoan, mà phải nói bài trừ, nghĩa là tìm đủ mọi cách để làm giảm thiểu đến mức tối đa nạn mê tín. Vì rằng “Tứ đổ tường” là một cái “apana” của loài người , thời thịnh vẫn có tệ nạn nhưng chỉ ở mức độ cho phép: “Cái chánh” đã lấn át trừ khử “cái tà” lan tỏa, phát triển.

1.1. Mê tín, dị đoan: là cả hai danh từ đều ám chỉ điều quái lạ và xấu xa. Mê tín (迷信) là tin điều nhãm, đến nỗi lạc vào mê lộ. Mê tín là nhắm mắt tin mù. Dị đoan (异端) là những điều tín ngưỡng lạ lùng, kỳ quái. Dị còn viết là 異 có nghĩa là khác lạ. Đoan (端) là đầu mối, mầm mối, ngay thẳng. 

Hợp hai danh từ chung nói trên lại thành “tứ tự thành ngữ” có nghĩa là điều tín ngưỡng lạ lùng, hoàn toàn trái xoáy với chánh tín của giáo lý nhà Phật, với đạo lý dân tộc.

Đã có từ điển Hán Việt giải thích danh từ “tín ngưỡng” (信仰) theo lối lập lòa: tín ngưỡng là lòng ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa. Tiếc thay! Nếu không muốn nói là “tiếc thương” cho lời giải mã của từ điển…

Đối với tôn giáo bạn, Đức Pháp chủ ngỏ lời khuyến dạy tứ chúng Phật tử rất nhân ái: “thân thiện đoàn kết với các tôn giáo bạn”. Đó là lời dạy vàng son, mang nhiều ấn tượng tốt lành và cao đẹp của bậc cao tăng thạc đức.

1.2. Tín ngưỡng:

Tín là tín, ngưỡng (仰) là kính mến. Đã có Từ điển giải thích rằng: “Nhà Phật cho những kẻ kiếm ăn bằng nghề xem thiên văn là “ngưỡng khẩu thực” (仰口食) thì không nên vì chưa rõ ràng và dễ gây ngộ nhận… Phật nhật tăng huy. Là Phật tử, khó mà tin lời giải thích, giải nghĩa của Từ điển theo lối ấy. Phải tra từ điển gốc chữ Pali hoặc Sanskit mới đúng! Tam sao thất bổn! Phiên dịch sai khiến đưa ra nhận thức sai, làm phiền lòng những nhà thiên văn học chân chính xưa nay.

Ai cũng có niềm tin, triết gia có niềm tin, thậm chí người học triết (chưa là Phật tử) vẫn có niềm tin (la foie philosofique). Duy trong tín ngưỡng dân gian còn nhiều điều cần được sàng lọc và tinh chọn ra nét đặc sắc hoặc tinh hoa. Điều này dễ dàng bắt gặp mỗi khi đọc những mẩu truyện truyền kỳ mang sắc màu truyền thuyết và thần thoại trong quốc sử lẫn trong Phật sử.

Người Phật tử tín thành, tin rằng có Phật ở trên đầu, như giáo sư Cao Huy Thuần đã nói nhiều lần trong các bài viết, bài diễn thuyết tại Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu quán – Huế trong mùa Phật đản năm 2013, PL 2557. Mỗi người, mỗi chúng sanh đều có Phật tính.

Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ. Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Đức tin là nguồn của đạo, là mẹ của công đức, nuôi dưỡng mọi pháp lành”.

1.3. Cứu cánh biện minh cho phương tiện:

Cửa chùa rộng mở. Tham quan chùa cổ ở xứ Thuận Hóa, du khách ngưỡng trông lên cửa phụ tả hữu có đề bằng chữ Hán: “Phương tiện môn” (方便門), người Pháp dịch là ressources; moyens commodes, expéditifs. Thiền sư Nguyễn Du đã viết: Khi chè chén, khi thuốc thang/ Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh. Và truyện Phan Trần nói rõ hơn bằng câu 6 chữ: Cửa từ phương tiện đâu bằng.  Cứu cánh sẽ biện minh cho phương tiện. Tùy duyên mà ứng xử bằng lối minh triết “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đường vào đạo Phật bằng trăm ngàn vạn nẽo, nhẹ nhàng và thanh thoát.

Chúng tôi lấy làm tâm đắc với lời phân tích của nhà văn Võ Đình Cường, tác giả sách Ánh Đạo Vàng: “Sách “Thuyền Uyển Tập Anh” do nhiều thiền sư lỗi lạc thời Bắc thuộc, thời Lý – Trần và về sau nữa đã khéo dùng phương tiện như thuật phong thủy, sấm vĩ, cầu mưa chống  hạn, trị bệnh để đưa quần chúng vào đạo. Người đọc phải dùng trí tuệ để nhận thức. Nếu xem cách làm ấy là phương tiện, chỉ có giá trị biểu trưng, thì không có gì là mê tín.”

Vì sao thế? Câu trả lời rất đơn giản, rất minh triết: “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Đạo Phật là đạo trí tuệ. Đất trời, non nước thật huyền nhiệm. Vua Thiệu Trị đã từng đặt tên cho Kinh đô Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế với nhiều danh lam thắng tích là đất thần kinh (La capital merveilleuse). Lấy sở học thâm hậu về truyền thuyết và thần thoại mới lý giải nổi, nếu chỉ đọc phớt là hiểu theo những con chữ thì tự mình sa vào mê lộ, không hơn không kém mà thôi.

II. NGĂN CHẶN HỦ TỤC, PHÁT HUY THUẦN PHONG MỸ TỤC

2.1. Giáo lý nhà Phật phân định rạch ròi giữa chánh tín và mê tín, vì mê tín dị đoan như ma đưa lối, quỷ đưa đường dẫn người ta sa chân vào mê lộ. Đạo Phật rất tôn trọng thực tiễn, không ly thế gian pháp.

Hủ tục trong nhân gian vẫn còn nhiều. Điển hình như tục tảo hôn, đốt vàng mã một cách vô tội vạ, cầu đồng bóng, mù quáng tin ngày tận thế đơn thuần theo ngữ nghĩa của con chữ nhảy múa, uống tàn nhang nước lã, chữa bệnh bằng lối ma thuật như hành hạ và tra tấn bệnh nhân, hối lộ Phật Thánh, hô hoán và thồi phồng “nhà ngoại cảm”. Dân gian đã từng lên án: Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.

Xem chừng tư tưởng “sính ngoại”, lối sống “phô trương” kể cả phơi bày thân xác lộ liễu. May thay đã kịp thời ngăn chặn nhưng nhược điểm là không thường xuyên: có đánh trống rồi sớm bỏ dùi. Trách nhiệm còn chung chung theo lối “cha chung chẳng ai khóc”. Thời mở cửa, nhiều gió lành nhưng cũng có nhiều gió chướng. Xa hoa, lãng phí (kể cả lãng phí thời gian) mua bán bằng cấp, rửa tiền, quảng cáo bịp bợm, nhậu nhẹt triền mên thâu đêm,… là những tệ nạn đầy tội lỗi phá rối nếp sống thanh bình, an lạc. Đó là “hủ tục tân thời”, đầy lạc hậu mà khoe là tiến bộ, đổi mới.

2.2. Thuần phong mỹ tục của người Việt và các dân tộc anh em chung một nhà Việt Nam còn nhiều, nhưng chưa phát huy hết tác dụng lâu dài và có chiều sâu. Cần kiệm là một điển hình. “Tùy gia phong kiệm” còn gìn giữ được ở các làng quê có truyền thống trong nghi lễ mà người cầm chịch là những cao niên quắc thước, lịch lãm trường đời. Lễ giỗ chạp, kể cả việc lo phần mộ và cúng tế những oan hồn uổng tử ở các làng quê như thể hiện lòng nhân ái. Nếu không có người sành sỏi, vững vàng, có bản lĩnh và đầy uy tín hướng dẫn, chỉ đạo thì dễ sa vào việc xa hoa, lãng phí, thậm chí là hủ tục xuất phát từ nạn hương ẩm theo lối chè chén, đánh bạc lấy xâu….

Nền nếp làng xưa được nông dân duy trì, tiếp nối và phát huy. Đầu năm đi lễ đền, chùa, đình làng, nhà thờ họ phái rồi thăm viếng gia đình người thân nội ngoại, thông gia, bằng hữu. Quên đi những gì chưa vừa lòng nhau trong năm cũ để thân chúc nhau một năm mới tràn đầy hạnh phúc và an lạc.

Người xưa rất quan tâm đến tình cảnh gieo neo, đơn độc, thiếu thốn tình cảm và vật chất của những người kém may mắn. Làng xóm, tôn môn trong tộc thuộc nội ngoại mở lòng cưu mang những người bị bệnh tật; kẻ giúp công, người giúp của, người an ủi làm ấm lòng kẻ xấu số phải gánh chịu nhiều thiệt thòi, thua thiệt.

Ở nông thôn ngày nay vẫn còn nhiều người tự nguyện làm công việc “Ăn cơm nhà, vác tù và lo việc làng xóm”. Những Phật tử làm từ thiện, theo tinh thần tự nguyện, hễ có nhà nào thiếu ăn, bệnh tật là được phát hiện sớm hơn cả: “miếng khi đói, gói khi no”. Ngày xưa, có phần ruộng đất đành để cung cấp lương thực cho người nghèo khó, cực khổ, lại có phần ruộng đất dành cấp để hỗ trợ cho học trò nghèo, học trò khó mà hiếu học… và nhà chùa có “ruộng Tam bảo” để lo việc hương khói, lễ hội quanh năm.

Còn nhiều mỹ tục kể ra không hết… Tất cả chì vì: “Thân cô, nhưng thế không cô,/ Liều thân xuống đó chỗ mô cũng có làng”. Làm đẹp việc làng tức làm tốt việc nước. Làng đi liền, gắn kết với nước một cách hữu cơ và bền chặt trong thời chiến cũng như trong thời bình. Dân chủ và công bằng xuất hiện ở làng quê trong việc bảo cử, đầu tiêm bầu Hội đồng hương chính.

Gắn liền với chủ trương độc lập dân tộc, sẵn sàng đối phó với giặc ngoại xâm lược, làng quê là làng chiến đấu. Trong kháng chiến chống quân thù từ mọi phía, người nông dân vai súng vai cày. Thời chiến, phụ nữ đảm trách việc cày bừa, đạp nước là lao động nặng. Sách lược này đã phát xuất dưới đời Hậu Lê, quân đội triều đình được thay phiên nhau: nửa năm ở quân ngũ, nửa năm lui về quê làm ruộng.

Toàn quyền Pháp Pasquier cho rằng quân đội Việt Nam thời xưa có nét đặc sắc nổi trội hơn quân đội của các nước khác trên thế giới. Người Việt có cách bảo vệ làng nước mang sắc thái riêng, xuất phát từ tinh thần bất khuất và lòng yêu nước nồng nàn. Đó là một trong những lý do khiến quân xâm lược từ xưa nay thua trận. Đây lại là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Nhà sử học thế giới Will Durant, đã từng nghiên cứu xã hội phương Đông và đúc rút thành câu nói bất hủ: “Văn minh nảy mầm từ căn chòi của nông dân và khai hoa giữa lòng đô thị” ở trong tác phẩm “Lịch sử văn minh Ấn Độ.

III. HOẰNG DƯƠNG GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT TỎA SÁNG TRONG NHÂN GIAN

Đạo Phật là đạo từ bi, là đạo hòa bình. Thế giới ngày nay đã khẳng định như một chân lý, không phải mất công bàn cãi nữa. Đạo Phật là đạo của người bình dân và cũng còn là đạo của người trí thức. Những đặc trưng ấy khiến cho đạo Phật trường tồn đi liền, gắn kết với dân tộc, thịnh suy theo vận nước.

2.1 Khuyến giáo của Đức Pháp Chủ:

Dưới tiêu đề khiêm tốn “VÀI LỜI ĐỂ LẠI”, Đức Đệ Nhất Pháp Chủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã viết tại chùa Hồng Phúc (Hòe Nhai) Hà Nội, PL 2531, ngày Canh Thìn 15/2 năm Đinh Mão (1987)  rõ sáng như sau:  “Pháp môn tu trì có hàng 8 vạn 4 nghìn, như Pháp môn” Phản văn tự tính (nghe cái tính nghe của mình)… Pháp môn nào cũng chỉ là tịnh từ hiện nghiệp lưu thức mới xong. Riêng Pháp môn “Tịnh độ” cũng là Pháp môn Thượng thượng thừa tin thực sâu, hành thực đúng, nguyện thực thiết, cầu vãng sinh Cực Lạc rất tiệp kính, cũng là Pháp môn viên dung đủ: Ngũ đình tâm, Tứ niệm xứ, Thất giác chí, Bát chính đạo, Vô ngã vị tha… Nếu không tu theo Pháp môn này thời phải tu theo “Hàng Bá” (行伯) lần lượt như sau:

        10 ngôi thập tín
        10 ngôi thập trụ
        10 ngôi thập hành
        10 ngôi thập hồi hướng
        10 ngôi thập địa cho chí Đẳng giác, mới thành Diệu giác

Nói chung, tất cả đều là phương tiện, cũng như “Do chỉ kiến nguyệt” để minh tâm kiến tánh.

Phật tử tu tập và hành đạo theo lời chỉ dạy của Đức Pháp chủ trì làm sao mà sa chân vào mê lộ. Thật vậy, không thể nào tạo môi trường để cho mê tín dị đoan có cơ hội phát triển như hình ảnh cỏ dại làm hại cây trồng.

Những bậc Tăng Già sinh trưởng thời khoa cử truyền thống Hán học đều là những bậc tinh thông tam giáo Phật – Lão – Nho một cách rốt ráo và lại đồng bộ trong 3 cung cách Lập đức – Lập công – Lập ngôn.  Về thê học quý Ngài đạt đến mức uyên áo, đỉnh đạc, tạo thành nhân cách kẻ sĩ hoặc sĩ phu. Nét nổi trội hơn các nhà Nho là tu chứng nghiêm cẩn, oai nghi. Quý Ngài là những bậc lương đống thạch trụ ở chốn Thiền Môn, chống đỡ ngôi nhà Giáo hội vượt qua phong ba bão táp. Đức Đệ Nhất Pháp Chủ, Hòa thượng Thích Đức Nhuận là người chứng của hai thế kỷ: cuối thế kỉ 19 và gần suốt thế kỉ 20 với nhiều biến động lịch sử. Nhân tài là nguyên khí của nhà nước, Tăng tài là sứ giả của Như Lai.

3.2. Vấn đề đào tạo Tăng tài.

Đức Pháp Chủ Thích Đức Nhuận là nhà giáo dục Phật giáo thời cận đại và hiện đại. Suốt đời Ngài, sự nghiệp lớn lao và vẻ vang nhất là việc mở trường Phật học từ Đồng Đắc là đất khởi nghiệp cho đến các trú xứ khác như Đại Hữu, Quảng Bá… Và đặc biệt nhất, tiêu biểu nhất, oai phong nhất là lời đề nghị của Ngài trước khi Ngài nhận ngôi vị Pháp Chủ là mở trường Phật học trên 3 miền Bắc Trung Nam. 
Ở giữa thời đầy khó khăn mà đề nghị ấy được ghi vào Nghị quyết Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam lần thứ nhất năm 1981. Cụ Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tán thành và hứa thực hiện. Rồi, cuối năm ấy, ĐỀ NGHỊ của Đức Pháp Chủ đã trở thành hiện thực.

Tu mà không học là tu mù, học mà không tu thì chỉ là cái đảy đựng sách. Châm ngôn ấy là lời khuyến cáo đối với tầng lớp tu sĩ trẻ và các giới Phật tử trong quần chúng nỗ lực học Phật. Hơn 30 năm qua, khắp các tinh thành lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế là những nơi đã thành lập các Học viện Phật giáo. Ngoài ra ở 30 tỉnh thành khác đã thành lập trường Cơ bản Phật học tiền thân của Trường Trung cấp Phật học.

Đào tạo Tăng tài trẻ có thực tu, thực học tinh tế biết ứng dụng giáo lý nhà Phật để góp phần truyền thừa Phật pháp trong nhân gian, ngăn chận và bài trừ nạn mê tín dị đoan. Muốn chửa căn bệnh xã hội đầy nhức nhối này thì việc trước tiên là phải có nhân sự tốt, có năng lực, dám nghĩ, dám làm theo chỉ giáo của những bậc thượng thừa trong Giáo hội Phật giáo tại từng địa phương.

Có điều đáng mừng là ngày nay các chùa làng, Niệm Phật đường đã được Giáo hội ở các tỉnh thành địa phương bổ nhiệm Tăng Ni giữ chức Trú trì mà trước đây chức vị này đã trống vắng lâu năm. Chúng tôi có nhiều dịp đi điền dã và cứu trợ ở miền duyên hải và bán sơn địa hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Trị mà lòng những thầm mừng về sự khởi sắc của làng quê theo nhịp điệu và hơi thở của nông thôn mới. Nhận thức của cán bộ phường xã, thôn xóm đã tiến bộ nhiều, nhất là về lãnh vực tín ngưỡng và tôn giáo. Việc hành đạo nhẹ nhàng, thân thiện hơn nhiều. Ở đâu đó còn có những vướng mắc là lẽ thường tình của cuộc sống, thì nhanh chóng được kịp thời khai thông, vượt qua một cách thỏa đáng. Nếp sống đạo giữa đô thị và nông thôn đã bước đầu thâu ngắn khoảng cách, làm giảm thiểu đi những so le chênh vênh, mất cân đối như trước kia.

3.3. Có một điều xem ra như nghịch lý mà có thực là mê tín dị đoan ở làng quê không tràn lan mạnh mẽ và lộ liễu như ở đô thị. Điển hình là việc xem bói, đồng bóng, đốt vàng mã vô tội vạ. Cúng cấp là để tưởng nhớ, tưởng niệm, tri ân hơn là cầu tài, cầu danh theo lối “hối lộ” thần thánh một cách nông cạn, hời hợt. Phải chăng là do nông dân còn nghèo, so với đô thị? Không. Chỉ vì tinh anh của đạo lý cổ truyền và văn hóa làng xã đã ăn sâu của từng làng quê và lưu truyền từ đời này sang đời khác, từ làng này qua làng khác còn được giữ gìn đậm nét trong lệ làng, trong hương ước, trong tộc phả theo phương châm “Giấy sách phải giữ lấy lề”:

            Tâm thanh hà cụ quỷ
            Khí thuận bất tùy tiên
    Dịch là:    
            Tâm sáng sợ gì quỷ
            Khí thuận chẳng cần tiên.
    Hoặc là:    
            Tứ hải danh nhân đề cổ tự.
            Nhất sơn phong vật mị thiền thâm.
    Dịch là:
            Danh nhân bốn biển ghi chùa cổ
            Gió mây một núi đẹp thiền sâu.

Tệ hại nhất là nạn nhậu nhẹt, lừa dối, lừa đảo, cá độ đã theo cùng với ngọn gió chướng thổi vào làng quê vốn thuần lương và yên bình. Bài trừ các tệ nạn xã hội trong đó có mê tín dị đoan còn là nhiệm vụ và trách nhiệm chung của nhiều đoàn thể, tổ chức xã hội, chớ không đơn phương là việc của nhà Phật, nhà Chùa. Những tăng sĩ đi chệch đường hướng đã kịp thời được Giáo hội quan tâm, uốn nắn, sửa chữa để thể hiện oai phong của chốn Thiền môn. Nghèo đói, kể cả đói chữ; siêng ăn nhác làm, kể cả sống thu mình do sợ hãi do thiếu dũng khí vì các nguyên nhân khác như bệnh tật, thối chí do phá sản, cầu tài bất chính… là  cơ sở cho mê tín dị đoan, mê tín hoành hành.

Nếu nhất tâm hạ quyết tâm cao, tất cả xã hội chung lòng, chung sức, gánh chung trách nhiệm có nghĩa vụ trước việc bài trừ “cái dữ”, “cái phi đạo lý”, “cái hoang tưởng” thì trước sau việc bài trừ mê tín dị đoan sẽ chóng vánh đạt thành quả mong ước. Riêng người Phật tử, thực hành Phật sự bằng chân tâm, bằng tâm Bồ đề kiên cố thì việc bài trừ mê tín sẽ có hiệu quả cao. Cả một dàn hợp xướng tuân thủ sự chỉ đạo sáng suốt và tài ba, đầy uy tín thì thế nào cũng ngân vang lên khúc nhạc thanh bình, quốc thái dân an… Nhà Chùa, Phật tử chính thống có niềm tin rằng việc làm đầy ý nghĩa cao đẹp và thiết thực ấy sẽ được sự đồng tình của xã hội.

*
*    *

Theo dòng chảy lịch sử văn hóa dân tộc, việc bài trừ mê tín dị đoan đã được ưu tiên thành vấn đề và đã có nhiều biện pháp ngăn chận, hữu hiệu. Thời chấn hưng Phật giáo Hòa thượng Tố Liên đã gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh nhân thế. Thời hiện đại Đức Đệ nhất Pháp Chủ, Hòa thượng Thích Đức Nhuận (1877-1993) đã răn dặn, khuyến giáo rõ nét thâm hậu trong các thông điệp, trong các lời dặn gửi Phật tử toàn quốc để tìm cách bài trừ tệ nạn xã hội ấy.

Trước một tệ nạn của đất nước, khoanh vùng lại theo lời dặn của Đức Pháp Chủ lúc sinh tiền, là Phật tử chúng con xin khơi gợi và thô thiển trình bày, phân tích bước đầu để đốt nén tâm hương kính cẩn tưởng nhớ, tưởng niệm công đức cao dày của Ngài. Chúng con kính đê đầu đảnh lễ Ngài, chí nguyện hành thực đúng, nguyện thức thiết để tự thân mỗi bản thân Phật tử xem mê tín dị đoan là tệ nạn phải bài trừ cấp thiết để đạo pháp xương minh, trường tồn và vẻ vang cùng dân tộc Việt Nam hưng thịnh và hạnh phúc an lạc.

    Huế, ngày 20 tháng 11 năm 2013
    L.Q.T

—————————————-

1. KỶ YẾU ĐỨC PHÁP CHỦ GHPG VIỆT NAM – Hòa thượng THÍCH ĐỨC NHUẬN (1897-1993), Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2010, tr.15
2. KỶ YẾU ĐỨC PHÁP CHỦ GHPG VIỆT NAM, Hòa thượng Thích Đức Nhuận (1897-1993), Sđd (tham luận “Tín ngưỡng và mê tín” của Võ Đình Cường), tr.73.
Apana: khó đào bới tận gốc, còn da lông mọc, còn chổi nảy hoa.
Tứ đổ tường: Đánh bạc, uống rượu, thuốc phiện, dâm dục
3. Hán Việt Thành Ngữ (Lexique d’expressions Sino-Annamites usuelles) Nxb Lê Văn Tân, Hà Nội, 1933, tr.238
Nhà bác học Albert Einstein đã viết ở sách CONCEPTIONS SCIENTIFIQUES, MORALES ET SOCIALES, Nxb Flamarion, Paris, tr.25 rằng: La science sans religion est boiteuse, la religion sans la science est aveugle. Tạm dịch nghĩa “Khoa học mà không tôn giáo thì hời hợt ; tôn giáo không khoa học thì mù quáng”.
4. Ngày Canh Thìn 15/2 năm Đinh Mão tức là ngày 14/3/1987, PL 2531. Từ Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo (1981) cho đến Đại hội Phật giáo kỳ 3 (1992). Ngài luôn luôn được Tăng, Ni, Phật tử cả nước tín nhiệm, suy tôn đảm nhiệm ngôi vị Pháp chủ cho đến ngày Ngại thị tịch 11 tháng 11 năm Quý Dậu (23/12/1993), PL 2537.
 Ngài nhận lãnh Tổ đình Hồng Phúc, chốn Tổ Thiền Phái Tào Động. Chùa Hồng Phúc (còn gọi là chùa Hòe Nhai, Hà Nội) là nơi trú xứ của Ngài, giữ chức Trú trì.
5. Ngài là một trong những vị Cao Tăng Thạc Đức của thể kỉ 20 của Phật giáo Việt Nam. “Vài lời để lại” thật thâm sâu và thâm hậu. Lời di huấn của Ngài để lại cho Đạo, cho Đời, sáng mãi theo thời gian. Đó là một bài học lịch sử vô giá. Đọc đi đọc lại nhiều lần, lần nào cũng tìm ra nét mới, nét tinh anh để làm tủ lương cho tứ chúng Phật tử, kể cả những nhà nghiên cứu Phật học có tầm cỡ lớn. Hòa thượng Thích Đức Nhuận có 97 tuổi đời, 77  hạ lạp, ở ngôi Pháp Chủ 3 nhiệm kỳ (nhiệm kỳ 3 : 1 năm). Tùy duyên, cái quan định luận.
6. Trường Chùa : dạy chữ Hán không chỉ cho Tăng Ni mà cho quần chúng có nhu cầu từ thời cổ đại. Sau năm Kỷ Mùi-1919, khoa thi Hội và thi Đình cuối cùng cáo chung. Việc dạy chữ Nho trong nhà Chùa vẫn liên tục, không bị ngắt khoảng, ngắt đứt như ngoài dân gian.
7. Năm 1981, Trường Cap cấp Phật giáo Hà Nội được thành lập, 2 năm sau Trường cao cấp Phật học Thành phố Hồ Chí Minh hình thành. Cả 2 trường đều cung thỉnh Hòa thượng Thích Minh Châu giữ chức Hiệu trưởng. Năm 1992 cải đổi tên gọi thành Học viện Phật giáo.
8. Học viện Phật giáo tại Huế hình thành năm 1997, Học viện Phật giáo Khmer thành lập tại Cần Thơ năm 2007.
Theo thống kê cho biết :

1. Học viện : có 4 trường đã đào tạo được 4825 Tăng Ni sinh tốt nghiệp cử nhân Phật học, đang đào tạo trên 2000 Tăng Ni sinh. Hệ đào tạo từ xa có 400 học viên đăng ký theo học.
2. Cao đẳng Phật học có 8 lớp, đào tạo 1506 Tăng Ni sinh tốt nghiệp, đang đào tạo khoảng 700 Tăng Ni sinh.
3. Trung cấp Phật học có 31 trường đã đào tạo 7.315 Tăng Ni sinh tốt nghiệp, đang đào tạo 2611 Tăng Ni sinh
3. Sơ cấp Phật học có khoảng 50 lớp và gần 1.500 Tăng Ni sin đang theo học.
  Nguyên văn: 心清何懼鬼/棄順不隨仙: 5000 Hoành phi câu đối Hàn Nôm, Trần Lê Sáng chủ biên, NXb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2006, tr.549
  Nguyên văn: 四海名人題寺古/一山風物蟬深: 5000 Hoành phi câu đối Hán Nôm, sđd, tr.490

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here