Trang chủ Văn hóa - Lịch sử Ân sư hiện diên

Ân sư hiện diên

138
0

20 năm đã trôi qua kể từ ngày Trưởng lão HT.Thích Đức Nhuận trở về thế giới Niết Bàn vô tung bất diệt, không còn hiện hữu để chứng kiến sự phát triển hưng thịnh của GHPGVN, song công đức và sự hiện diện của Ngài trong lòng Tăng ni, phật tử và trang sử vàng son của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại vẫn còn sống mãi với thời gian vô cùng, không gian vô tận.

1. Mở đầu

Đại thắng lịch sử mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất Tổ quốc, giang san nối liền một cõi, Bắc – Nam sum họp một nhà là cơ duyên, điều kiện để Phật giáo Việt Nam thống nhất thành một tổ chức Giáo hội, đáp ứng nguyện vọng của Tăng ni, phật tử Việt Nam từ bao đời và kế thừa sự nghiệp hơn 2.000 năm của Phật giáo Việt Nam.

Năm 1980, chư tôn giáo phẩm lãnh đạo các tổ chức, hệ phái Phật giáo cả nước đã toàn tâm, toàn trí thống nhất Phật giáo Việt Nam. Kết quả là một Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam đã hình thành, gồm: Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Quyền Hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam và Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Chánh Thư ký Viện Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất làm chứng minh; Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất làm Trưởng ban; các hòa thượng Thích Thế Long, Thích Trí Tịnh, Thích Bửu Ý, Thích Giới Nghiêm, Thích Minh Nguyệt làm Phó ban; các hòa thượng Thích Minh Châu, Thích Thanh Tứ, Thích Từ Hạnh, Thích Giác Toàn, Thích Thiện Tâm, các ni trưởng Thích nữ Huỳnh Liên, Thích nữ Liễu Tánh, Cư sĩ Võ Đình Cường,v.v… là thành viên.

Qua gần 02 năm, công tác hiệp thương, bàn luận, trao đổi về nội dung, chương trình hành động đã hoàn tất. Từ ngày 04 đến ngày 07/11/1981, tại chùa Quán Sứ, Thủ đô Hà Nội, đã diễn ra Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam. Đại hội đã thành lập “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, thông qua Hiến chương, thành phần lãnh đạo Trung ương Giáo hội, gồm Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự. Hòa thượng Thích Đức Nhuận được Đại hội suy tôn lên ngôi vị Pháp chủ đầu tiên của GHPGVN. Hòa thượng Thích Trí Thủ được Đại hội suy cử làm Chủ tịch Hội đồng Trị sự Nhiệm kỳ I GHPGVN.

2. Nội dung

2.1. Những nguyện vọng đã thành hiện thực

Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận được Đại hội suy tôn lên ngôi vị Pháp chủ đầu tiên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tương đương ngôi vị Tăng thống thời phong kiến do nhà vua phong tặng.

Trái lại, dưới thời đại dân chủ ngày nay, Trưởng lão Hòa thượng được Đại hội, tức đại chúng suy tôn. Tuy nhiên, với đức tính khiêm tôn, nhún nhường, nên ba lần Đại hội cung thỉnh, Ngài đều từ chối.

Cuối cùng, Đại Trưởng lão huấn thị, nếu Đại hội cung thỉnh Ngài vào ngôi vị tối cao lãnh đạo Giáo hội và thực hiện được tâm tư của Tăng ni, phật tử, thì phải chấp nhận những đề nghị của Ngài và trình Chính phủ chấp thuận thi hành 3 điều:

– Được mở Trường Cao Cấp Phật học tại ba miền Nam, Trung, Bắc và các Trường Cơ bản Phật học tại các tỉnh thành;

– Tăng ni được phép xuất gia tu học tại các cơ sở tự viện;

– Tín đồ Phật tử được tự do đi chùa lễ bái, sinh hoạt tín ngưỡng tại các cơ sở tự viện trong cả nước.

Khi bế mạc Đại hội, vào yết kiến Thủ tướng, Đại Trưởng lão Thích Đức Nhuận đã lập lại 03 đề nghị nêu trên và đã được Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng chấp thuận thực hiện.

Hơn 30 năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc thực hiện hoàn tất, có kết quả chương trình hoạt động của Giáo hội. Đến nay có 60 đơn vị tỉnh thành Phật giáo trong cả nước (60/63), có 04 Học viện Phật giáo Việt Nam, đã đào tạo được 4.064 Tăng ni, đang đào tạo 1.071 Tăng ni trình độ Cử nhân Phật học; có 31 Trường Trung cấp Phật học, đã đào tạo 7.092 Tăng ni, đang đào tạo 2.611 Tăng ni sinh; có 08 Lớp Cao đẳng Phật học, đã đào tạo 1.467 Tăng ni, đang đào tạo 690 Tăng ni sinh và hàng ngàn Tăng ni theo học Chương trình Sơ cấp Phật học.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam không ngừng phát triển về số lượng cũng như chất lượng. Cả nước hiện có:

– 47.237 Tăng ni (Bắc tông: 36.062 vị, trong đó Tăng: 17.546 vị, Ni: 18.516 vị; Nam tông Khmer: 7.032 vị; Nam tông Kinh: 805 vị; Khất sĩ: 3.258 vị, trong đó Tăng: 1.395 vị, Ni: 1863 vị.

– 17.287 cơ sở tự viện: Bắc tông: 14.691, Nam tông khmer: 454, Nam tông Kinh: 73, Tịnh xá: 550, Tịnh thất: 467, Niệm Phật đường: 998, tự viện người Hoa 54.

– Hơn 15 triệu tín đồ có phái và sổ quy y, gần 20 triệu người có tín ngưỡng Phật giáo, tổng cộng trên 45 triệu/90 triệu dân số Việt Nam.  

2.2. Tông phong pháp phái: Thiền phái Tào Động tại Việt Nam

Thiền phái Tào Động do Thiền sư Lương Giới thành lập tại Trung Quốc.  Ngài là 01 trong 5 hàng đệ tử của Lục tổ Huệ Năng; là người truyền bá Thiền phái Tào Động vào Việt Nam đầu tiên, được xem như là Sơ tổ Thiền phái Tào Động. Tông Tào Động truyền đến Thiền sư Tâm Nghĩa Nhân Từ đời thứ 47 như sau:

1.        Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo
2.        Thiền sư Thủy Nguyệt Thông Giác Đạo Nam
3.        Thiền sư Chơn Dung Tông Diễn
4.        Thiền sư Tĩnh Giác, Từ Sơn Hành Nhất
5.        Thiền sư Bản Lai Thiện Thuận, Tĩnh Chúc Đạo Chu
6.        Thiền sư Viên Thông Lai Nguyên – Hải Điện Mật Đa
7.        Thiền sư Đạo Nguyên – Thanh Lãng – Khoan Dực Phổ Chiếu
8.        Thiền sư Thanh Đàm – Giác Đạo Tâm
9.        Thiền sư Lục Hoa Minh Chánh Hoằng Quang Giác Lâm Minh Liễu
10.   Thiền sư Thanh Như Chiếu Đạo Sinh Quang Lịch Minh Đạt
11.   Thiền sư Hồng Phúc Quảng Lự – Thích Đường Đường, Như Như
12.   Thiền sư Hòa Thái, Chính Bình, Thích Bình Bình Vô Tướng
13.   Thiền sư Tâm Nghĩa, Thích Nhân Từ

Đặc biệt, chùa Hồng Phúc (Hòe Nhai) là nơi lập cước hành đạo của Thiền sư Hồng Phúc – Như Như. Chùa Hồng Phúc là Tổ đình của Thiền phái Tào Động, do Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm trụ trì, là đời thứ 10 của Tổ đình Hồng Phúc – Thiền phái Tào Động ở Việt Nam, theo dòng kệ của thiền phái này như sau:

Tịnh Trí Thông Tôn Từ Tính Hải.
Khoan Giác Đạo Sinh Quang Chính Tâm.
Mật Hạnh Nhân Đức Xưng Lương Tuệ.
Đăng Phổ Chiếu Hoằng Pháp Vĩnh Tướng.

Các chùa Hàm Long (Bắc Ninh), Hòe Nhai, Trấn Quốc, Thiên Trúc, Quảng Bá và Yên Phú (Hà Nội), Bích Động (Bắc Ninh), Thái Lai và Vạn Long (Hải Phòng), Thiên Mụ (Huế), Pháp Hoa và Phước Hải (Thành phố Hồ Chí Minh), Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), Đồng Đắc, Non Nước và Phúc Chỉnh (Ninh Bình),v.v… thuộc Thiền phái Tào Động ở Việt Nam, tu học và phát triển ổn định từ xưa đến nay, nhất là dưới thời Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận còn là hàng Giáo phẩm Phật giáo tỉnh Ninh Bình, Thủ đô Hà Nội, đến Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ giai đoạn 1981 – 1993. Công đức ấy vô cùng to lớn, sâu dày trong sự nghiệp truyền trì tông phong pháp phái của Ngài đối với Phật giáo Việt Nam xưa cũng như Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay.

2.3. Kế thừa pháp môn tu tập

Trưởng lão Hòa thượng Pháp chủ Thích Đức Nhuận tu tập theo Thiền phái Tào Động, như công án “phản văn văn tự tính” (nghe lại tính nghe của mình), được trình bày trong Kinh Lăng Nghiêm, do Bồ tát Quán Thế Âm thuyết minh, Bồ tát Văn Thù và Đức Phật ấn chứng, lưu truyền đến ngày nay. Trong lịch sử, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã huấn thị: “Hãy quán sát lại chính mình là bổn phận của mỗi người, không do người khác làm thế được”. Thiền sư Hương Hải từng nhấn mạnh: “Hằng ngày nên sát lại mình. Xét nét cho cùng chớ dễ khinh. Không tìm tri thức ở trong mộng. Mặt Thầy sẽ thấy trên mặt mình”. Từ những ý chỉ ấy, Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận đã cô đọng lại thành bài kệ, cũng là pháp tu chính “Một niềm xoay lại tính nghe. Muôn sự buông xuôi chỉ tính nghe. Nghe lắng cho sâu không nghe cảnh. Cảnh rời văn tính, nghe tính nghe” mà Ngài là người thực hành nghiêm mật, cho đến khi quả mãn. Pháp tu ấy được minh thị như sau:  

Khi mới nghe tiếng động 

Không chạy theo tiếng động 

Mà xoay lại tính nghe 

Vì thế hai thứ tướng                    

Động và tịnh không sinh                   

Như vậy tăng tiến dần                       

Tính nghe, tiếng không còn            

Nhưng không trụ chỗ hết         

Biết, được biết là không                    

Đến chỗ viên mãn cùng cực                        

Song vẫn còn cái không                    

Nên diệt không và biết không           

Cả hai không còn cái diệt

Khi sinh và diệt đã hết                      

Thì sự vắng lặng hiện lên                  

Là chứng được tính nghe.

(Sơ ư văn trung. Nhập lưu vong sở. Sở nhập ký tịch. Động tịnh nhị tướng. Liễu nhiên bất sinh. Như thị tiệm tăng. Văn, sở văn tận. Tận văn bất trụ. Giác, sở, giác không. Không tính cực viên. Không, sở không diệt, Sinh diệt ký diệt. Tịch diệt hiện tiền) (Kinh Thủ Lăng Nghiêm).

Như vậy, pháp tu này có 5 giai đoạn:

1. Bắt đầu từ khi cái nghe đổi âm thanh, không sinh tâm phân biệt theo âm thanh, nên âm thanh tự vắng lặng, song vẫn còn cái nghe;
2. Đến khi cái nghe cũng hết, nhưng vẫn còn cái hết;
3. Tiếp tục loại trừ cái hết, nhưng vẫn còn cái biết hết;
4. Nên nỗ lực đoạn trừ cái biết hết, song vẫn còn sự biết không;
5. Cuối cùng phải trừ khử cái không, nên không không còn.

Vì vậy, vọng niệm không còn, nên chân tâm tự hiện. Cũng như cáu bẩn nước đục, cáu bẩn đã tự lắng xuống thì nước trong xanh hiển hiện. Như Thiền sư Xuyên Công nói: “Gió cuốn mây đen về biển cả. Một vầng trăng sáng giữa trời không” (Vô hạn dã vân phong quyển tận. Nhất luân minh nguyệt chiếu thiên không). 

Sự hiện diện của Hòa thượng Thích Đức Nhuận đơn giản chỉ có thế thôi, nhưng ý nghĩa vô cùng quan trọng, vô cùng thẩm thấu và chan hòa. Ngài không đi nhiều, không nói nhiều, không làm nhiều nhưng là tất cả. Vì sao? Vì người xưa đã nói: “Bậc hiền nhân trí đức, chỉ cần nhìn qua cửa sổ, nhưng đã quán thông cả thiên hạ. Chỉ cần rảo bước chốn liêu phòng, nhưng dấu ấn, âm ba chan hòa khắp cả mọi nơi” (Khổng Tử, Mạnh Tử).

Tại sao? Vì Ngài đã đi bằng tâm, nói bằng tâm và hành động bằng tâm, nên Tâm Tâm giao hợp, cảm thông. Thấm nhuần ân đức hộ trì của Ngài, biết bao Phật sự của Giáo hội đều được thành tựu như ý, nhất là Tăng ni, phật tử Việt Nam cảm thấy ấm lòng, an dạ tu tâm, hành đạo và càng củng cố niềm tin đạo pháp. Quả thật, như cổ đức nói: “Duyên xưa biết mấy nhiêu đàng. Bây giờ xem lại rõ ràng là đây”.

Sự hiện diện của Hòa thượng Thích Đức Nhuận trong liên phòng thanh vắng, trầm ngâm tư duy, quán chiếu, thân tâm thanh tịnh là một sức sống, niềm tin cho Tăng thân và Pháp thân đại chúng, hàng môn nhân đệ tử và những ai có duyên bái kiến Ngài nơi phương trượng Tổ đình Hồng Phúc (Hòe Nhai), để rồi càng chiêm nghiệm, quán chiếu theo tinh thần Kinh Lăng Nghiêm “phản văn văn tự tính” và Thiền sư Hương Hải: “Hằng ngày nên quán sát lại mình. Xét nét cho cùng chớ dễ khinh. Không tìm tri thức ở trong mộng. Mặt Thầy sẽ hiện trên mặt mình”.

Từ những ý nghĩa ấy, Hòa thượng Thích Đức Nhuận đã hiện diện trong lòng Tăng ni, phật tử Việt Nam. Những lúc pháp thể khiếm an, chư tôn giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội, Tăng ni, phật tử Việt Nam vào bái kiến tại Bệnh viện Việt Xô, Ngài khuyên nên tinh tiến tu hành theo pháp quán phản văn tự tỉnh, nếu không được thì phải tu theo phép hàng bố là trải qua 52 địa vị Tam hiền, Thập thánh, Đẳng giác Phật quả để giữ gìn thiện căn công đức, để tô bồi đạo pháp, vững bước trên đường hành đạo và mãi hiện diện trong chính pháp, với pháp thân bất diệt của người tu.

Những lời khuyên đơn giản, trầm tĩnh, thẩm thấu của Ngài là những chất liệu quý để nuôi dưỡng giới thân Tuệ mạng cho hàng vạn Tăng ni, phật tử không những đời này mà còn cho đến vô lượng đời sau, đến khi giải thoát hoàn toàn, nhất là tinh tiến hơn nữa trên lộ trình phụng sự đạo pháp, phục vụ Giáo hội và chúng sinh, như Tổ Quy Sơn đã dạy: “Nguyện bách kiếp thiên sinh đồng vi pháp lữ”.

3. Lời kết

20 năm đã trôi qua kể từ ngày Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận trở về thế giới Niết Bàn vô tung bất diệt, không còn hiện hữu để chứng kiến sự phát triển hưng thịnh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, song công đức và sự hiện diện của Ngài trong lòng Tăng ni, Phật và trang sử vàng son của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại vẫn còn sống mãi với thời gian vô cùng, không gian vô tận. Quả thật:

“Dù cho Hòa thượng đi xa
Quê hương vẫn giữ bao la bóng Ngài
Pháp thân lồng lộng hiển này
Vườn hoa Hồng Phúc hương bay ngút ngàn”./.

* HT. Thích Thiện Nhơn

Quyền Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  Kỷ yếu Đại hội Phật giáo toàn quốc kỳ 1 (1981), kỳ 2 (1987).
–  Kỷ yếu Tang lễ Đức Đệ nhất Pháp chủ (1994).
–  Kỷ yếu Hội thảo kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội (Thành hội Phật giáo Thành phố Hà Nội xuất bản, 2010).
–  Kỷ yếu Hội thảo Kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Văn phòng Trung ương Giáo hội xuất bản, 2011).
–  Lược sử Phật giáo Hải Phòng (Hòa thượng Kim Cương Tử).
–  Chùa Trấn Quốc (Hòa thượng Kim Cương Tử).
–  Những bài viết của Hòa thượng Kim Cương Tử.
–  Thiền sư Việt Nam (Hòa thượng Thích Thanh Từ).
–  Thiền phả (Tư liệu chùa Hồng Phúc).
–  Kinh Thủ Lăng Nghiêm,v.v…
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn
Quyền Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here