Trang chủ Văn hóa - Lịch sử Lâm Tỳ Ni và Sự kiện Đức Phật Đản sanh

Lâm Tỳ Ni và Sự kiện Đức Phật Đản sanh

200
0

Lâm Tỳ Ni phiên âm từ chữ phạn (Lumbini), là nơi đản sanh của Đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni, gần biên giới Ấn độ và Nepal, cách thành Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ) khoản 30km, nằm dưới chân núi phía Nam của dãy Himalaya (Hi Mã Lạp sơn) quanh năm bốn mùa tuyết phủ. Ngày nay thánh tích Lâm Tỳ Ni thuộc phần lãnh thổ Nepal. Vào thời vua Shuddhodana (Tịnh Phạn), Lâm Tỳ Ni là một khu vườn có rất nhiều cây xanh và bóng mát, đầy hoa thơm cỏ lạ.Vẻ đẹp của Lâm Tỳ Ni thật quyến rũ và nên thơ khiến cho hoàng hậu Maya trên đường từ Ca Tỳ La Vệ về lại quê bà là Devadaha phải ngừng chân lại để nghỉ ngơi và thưởng ngoạn.Theo tục lệ xưa của Ấn độ, hoàng hậu Maya phải trở về quê nhà để sanh Thái tử. Vào buổi sáng sớm mai thật đẹp trời, gió thổi rì rào, hương thơm ngào ngạt khắp vườn, trăm hoa đua nở, ngàn chim đua nhau hót líu lo, cảnh vật thiên nhiên ở đây như đang chào đón và mời mọc hoàng hậu quá bước. Trong niềm hỉ lạc, hân hoan với cảm giác nhẹ nhàng thoải mái, hoàng hậu đến bên gốc cây Asoka (Vô ưu) đưa tay vịn cành và từ hông bên phải, bà đã hạ sanh Thái tử. Lúc ấy, đại đia chấn động, có vô số hào quang chiếu khắp các thế giới, như Đức Phật đã diễn tả trong kinh tạng rằng:


“Này các Tỷ-kheo, khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, khi ấy một hào quang vô lượng thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm có các thế giới trên chư Thiên, thế giới của các Ma vương và Phạm thiên, và thế giới ở dưới gồm các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các vị hoàng tử và dân chúng. Cho đến các cảnh giới ở giữa các thế giới, không có nền tảng, tối tăm, u ám, những cảnh giới mà mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu, trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh sống tại những chỗ ấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau mà nói: “Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây”. Và mười ngàn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Hào quang vô lượng thần diệu ấy thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra ở thế giới.” (Kinh Đại Bổn-Trường Bộ))


“Lại nữa, này Ananda, khi vị Bồ-tát, chánh niệm, tỉnh giác, ra khỏi mẫu thai, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân, duyên khiến đại địa chấn động.” (Kinh Đại Bát Niết Bàn)


Lúc Bồ tát mới sinh ra, từ trên không trung bỗng tưới xuống hai dòng nước một ấm một mát thơm ngạt ngào để tắm gội cho thái tử. Khi dòng nước tắt, ngài đã dõng dạt bước đi về phương đông bảy bước và lạ kia từ dưới đất những búp sen tuyệt trần đã nở ra để tránh gót chân ngài phải dính bụi trần. Một tay chỉ trời, tay chỉ đất ngài tuyên bố:


“Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn
Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỉ”


“Này các Tỷ-kheo, Vị Bồ-tát khi sanh ra, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: “Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa”.  (Kinh Đại Bổn)



Toàn cảnh Lâm Tỳ Ni hiện nay


Lời tuyên bố hùng hồn ấy là một sự thật minh chứng cho quá trình tự thân tu tập, hành trì và cuối cùng đạt chứng ngộ giải thoát của ngài. Ở đây, hình tượng siêu thực của Phật đản sinh xuất phát từ trong hiện thực. Ngài là một con người thật được sinh ra và lớn lên trong đời. Mỗi bước đi của Đức Phật là mỗi bước làm hóa hiện hạnh nguyện từ bi trí tuệ đem đến tình thương và hạnh phúc cho muôn loài. Ngài là hiện thân của những gì cao quý nhất như hoa sen sinh ra trong bùn, mọc lên từ bùn mà không bị ô nhiễm mùi bùn. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa sen là hình ảnh biểu đạt lộ trình tu tập và chứng ngộ qua các giai đoạn: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát Thánh đạo. (37 phẩm trợ đạo). Đây chính là con đường đưa Ngài đến thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Bảy đóa hoa sen cũng biểu trưng cho sự ra đời của ngài là sự hiện thân và tiếp nối truyền thống của bảy vị Phật thị hiện ra đời để giáo hóa cứu độ chúng sanh.


“Này các Tỷ-kheo, chín mươi mốt kiếp về trước, Thế Tôn Vipassĩ (Tỳ-bà-thi), bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, ba mươi mốt kiếp về trước, Thế Tôn Sikhĩ (Thi-khí) bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, cũng trong ba mươi mốt kiếp ấy, Thế Tôn Vessabhũ (Tỳ-xá-bà) bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo cũng trong hiền kiếp ấy, Thế Tôn Kakusandha (Câu-lâu-tôn) bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, cũng trong hiền kiếp ấy, Thế Tôn Konãgamana (Câu-na-hàm) bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, cũng trong hiền kiếp ấy, Thế Tôn Kassapa (Ca-diếp) bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, cũng trong hiền kiếp ấy, nay Ta, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời.” ( Kinh Đại Bổn)



Bức phù điêu diễn tả Hoàng Hậu đản sanh Thái Tử


Sau khi hạ sanh Thái tử, Hoàng hậu không khỏi ngỡ ngàng trước những hiện tượng kỳ lạ nhiệm mầu xảy ra xung quanh sự sanh Thái tử và bà cho thu xếp hành trang để về lại Ca Tỳ La Vệ. Nhà vua đã vui mừng khôn xiết ra tận cổng thành đón tiếp phu nhân và đặt tên cho thái tử là Siddhartha (Sĩ Đạt Ta) nghĩa là Người được mãn nguyện. Lễ đặt tên thái tử được cử hành long trọng, mỗi nhà đều kết hoa treo đèn, mọi người đều vui chơi. Tại hoàng cung mở yến tiệc linh đình, trên không trung, tiếng sáo nhạc vang trời, chư thiên ca ngợi rải hoa cúng dường mừng một bậc Vĩ nhân xuất thế.


“Ôi hân hoan! Hân hoan cho toàn cả mấy tầng trời. Chúng sanh ơi! Một ánh sáng chói ngời, một đoá ưu đàm nở rộ, ngàn năm muôn thuở, hoa nở một lần. Chúng sanh ơi! Một đấng Đại từ, đại bi, đại trí, đại đức vừa xuất hiện trên đời.”(Ánh đạo vàng)


Theo các sử liệu thì thái tử Siddhartha đản sanh vào ngày Vesak (tức là ngày trăng tròn tháng năm theo lịch Ấn Độ) vào năm 623 trước tây lịch. Khoảng hơn 200 năm, sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, đại đế Ashoka (A Dục) trong chuyén đến viếng thăm, chiêm bái, nhà vua đã cho dựng bốn ngọn tháp và một trụ đá bằng sa thạch có tượng một con ngựa trên đầu trụ. Tiếc rằng ngày nay tượng không còn. Trên trụ đá ngày nay chúng ta vẫn còn thấy những hàng chữ Brahmi do vua A Dục sắc phong:


Devannapiyena piyadasina lajina-visativasabhisitena.
Atana-agacha mahiyite. Hida Budhe-jate sakyamuniti.
Silavigadabhicha kalapita silathabhe-cha usapapite.
Hida Bhagavam jateti Lumbinigame ubalike kate,
Athabhagiye cha.


“Sau hai mươi năm lên ngôi,Vua Pryadarsin, người được các vị thiên thần kính mến và ủng hộ, tự Ngài thân hành đến viếng thăm, đảnh lễ và cúng dường tại chỗ này, Bới vì đây là nơi Ðức Sakya Muni đản sanh. Ngài truyền lịnh cho các quan trong triều xây một pho tượng rất lớn và đặt một trụ đá dựng tại chỗ này, để đánh dấu một chỗ đức Thế Tôn xuất thế. Từ đó về sau Vua truyền lệnh dân làng Lumbini được miễn đóng thuế nghi lễ và chi trả 1/8 lợi tức mà thôi”.



Trụ đá Vua A Dục ở Lâm Tỳ Ni


Ngày nay chúng ta đến Lâm Tỳ Ni thì, không còn gì nữa cả. Chỉ còn chăng là một trụ đá chơ vơ bị bào mòn bởi thời gian, và gãy đổ bởi giông bão. Trụ đá được bao bọc bằng một hàng rào sắt han rỉ đầy tiêu điều tang thương. Tất cả khách hành hương đều phải ngậm ngùi dừng bước nơi chân trụ đá để tụng một thời kinh như luyến tiếc không thể trở ngược thời gian để chứng kiến cảnh ra đời của một vị cứu thế. Trụ đá làm bằng một loại sa thạch, có lẽ ngày xưa cũng bóng láng như đầu sư tử tại viện bảo tàng Sarnath. Nguyên thỉ trụ cao bao nhiêu không biết, nhưng ngày nay chúng ta thấy một cây cột trên nhỏ dần, đường kính khoảng nửa thước và cao khoảng 5 thước.


Kế bên trụ đá vua A Dục là một ngôi đền của hoàng hậu Maya. Trong đó có một bức phù điêu chạm hình đức Phật đản sanh, đây là nơi được cúng bái từ đầu kỷ nguyên tây lịch. Bức phù điêu diễn tả hoàng hậu đang giơ tay vịn cành cây với hình ảnh thái tử đứng thẳng người trên một toà sen,  phóng một vòng hào quang tròn quanh đầu, trong khi hai chư thiên đang tưới nước rãi hoa từ những bảo bình để cúng dường. Bức phù điêu này đã được vua Malla của triều đại Naga dâng cúng, một triều đại đã cai trị vùng Karnali của Nepal vào thế kỷ XI đến thế kỷ XV. Ngài Minh Châu đã ghi nhận rằng đền thờ này bên trên còn rất mới trong khi nền đá dưới hiện rõ nét rêu phong.


Cách trụ đá không xa là một hồ nước, đánh dấu nơi hoàng hậu tắm sau khi sanh thái tử. Đứng xa xa nhìn hồ nước thật nên thơ, bầu trời phản chiếu trong nước một màu xanh ngọc bích, màu xanh da trời đã bị màu xanh rêu của nước biến thể đi, và tàng cây bồ đề to lớn với những cành dài vươn trên hồ như muốn tắm mình trong nước. Bên cạnh hồ nước và đèn thờ hoàng hậu Maya là những dãy nền móng gạch đổ nát tiêu điều, đó là quần thể di tích của tu viện Lâm Tỳ Ni ngày xưa.


Trong cuốn Phật Quốc Ký, ngài Pháp Hiền đã ghi lại như sau: “Năm mươi lý về phía đông của cung thành là một vườn ngự uyển mang tên Lâm Tỳ Ni; chính nơi đây hoàng hậu đã tắm rửa và sau đó đi về phía bắc khoảng hai mươi trượng bà vịn vào một nhánh cây, khi bà dõi mắt về phương đông bà đã sanh ra thái tử. Khi sanh ra, thái tử đã đi bảy bước và hai vị vua rồng đã phun nước để rửa thân thể ngài. Nơi này về sau đã được đào thành một cái giếng, ở đây nó giống như là một cái hồ, những nhà sư dùng nước trong đó để uống. Ngài Huyền Trang đã tường trình như sau trong cuốn Đại Đường Tây Vức Ký :“Từ cái giếng tên [tiễn tỉnh-nơi mũi lao của đức Phật ghim vào và tạo thànhẠ] đi về phía đông bắc 80 hay 90 lý gì đó, chúng ta sẽ gặp vườn Lâm Tỳ Ni. Nơi đây có một hồ tắm của giòng họ Thích, nước trong hồ chói sáng và trong suốt như một tấm gương, trên mặt hồ nở nhiều loại hoa.”


Theo hồi ký của HT. Minh Châu: “Ngày xưa cảnh vật tươi đẹp bao nhiêu, thì ngày nay khu vườn lại tàn tạ tiêu điều bấy nhiêu. Mặc dù có cây cối đền tháp, nhưng cảnh trí không được huy hoàng như xưa và nhất là không tốt đẹp như các thánh tích thuộc chánh phủ Ấn Độ mà tôi đã chiêm bái. Chánh phủ Nepal đang cố gắng sửa sang lại thánh tích này, nhưng có lẽ vì cách trở đường xá nên công việc chưa mấy kết quả! Tôi buồn cho Thánh địa tiêu sơ này.”



Đền thờ Hoàng Hậu Maya và quần thể di tích tu viện Lâm Tỳ Ni


Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà học giả đến chiêm bái như ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V, ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII cũng như HT Thích Minh Châu vào thế kỷ thứ XX.  Vào thế kỷ thứ XIV, 1314, vua Ripu Malla của tây Nepal đã đến đây chiêm bái và khắc tên mình lên trụ đá. Từ đó đến nay Lâm Tỳ Ni đi vào quên lãng. Mặc dù đã bị bỏ hoang từ nhiều thế kỷ trước, khi ngài Pháp Hiền và ngài Huyền Trang đến đây thì không còn có dân cư ở đó nữa, Lâm Tỳ Ni vẫn còn là một nơi chiêm bái cho những người Phật Tử.


Vào năm 1895-96, nhà khảo cổ nhà khảo cổ người Đức, ông Fóhrer, đã phát hiện ra trụ đá của Vua A Duc. Sau khi được khai quật, nhân vào đại hội Tăng Già Thế Giới lần thứ tư 1958 vua Mahendra đã cúng dường hơn 100.000,00 RS để trùng tu Lâm Tỳ Ni. Năm 1967 Tổng Thư Ký của Liên Hiệp Quốc U.Thant đã thành lập một hội đồng trùng tu Lâm Tỳ Ni và biến chương trình này thành một vấn đề quốc tế. Tháng 10 năm 1978 đại hội Phật tử thế giới tại Nhật đã tuyên bố năm 1979 là năm của Lâm Tỳ Ni. Vào năm 1980, Thầy Huyền Diệu đến kiến lập Việt Nam Phật Quốc Tự và từ đó các tự viện chùa tháp của nhiều quốc gia trên thế giới cũng đã có mặt trên vùng đất thiêng liêng này.


Hơn 25 thế kỷ về trước, Lâm Tỳ Ni đã chứng kiến và ghi dấu sự ra đời của đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni, bậc thầy của chư thiên và loài người, một sự kiện lịch sử tôn giáo trọng đại của nhân loại. Theo biến cố thăng trầm của lịch sử và dấu vết của thời gian, thánh đia Lâm Tỳ Ni một thời vang bóng cũng đã bị điêu tàn hoang phế và đi vào quên lãng cùng chung số phận với những thánh tích Phật giáo khác ở Ấn độ, nhất là sau cuôc chiến tranh tôn giáo và sự tàn phá của đội quân Hồi giáo vào thế kỷ thứ XIV (1314). Nhưng thông điệp của đức Phật đã bất diệt, lớn dần và trở nên quan trọng qua từng thế kỷ, nhất là trong thế kỷ này Giáo lý Phật Đà lại càng có giá trị hơn bao giờ hết. Những lời dạy về từ bi, hoà bình, khoang dung, bất bạo động và con đường giác ngộ đã được tất cả tôn giáo trên thế giới đón nhận. Ngày nay, Lâm Tỳ Ni, thánh địa thiêng liêng, ghi lại dấu tích ra đời của Đấng Giác Ngộ đã trở thành một trong những thánh tích Phật giáo lớn nhất ở Ấn độ và thế giới, là nơi để trở về chiêm bái, đảnh lễ, cầu nguyện của hàng triệu người con Phật.
 
 “Này Ananda, có bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Thế nào là bốn?


“Đây là chỗ Như Lai đản sanh”,  “Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác”, “Đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng”, “Đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết-bàn”, này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.


Này Ananda, và những ai, trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên.”(Kinh Đại Bổn)


Nhân kỷ niệm ngày vía Đản sanh của Đức Từ phụ, tìm hiểu đôi nét về lịch sử và những sự kiện liên quan đến cuộc đời Ngài là bài học vô cùng sống động, là niềm hỉ lạc, hạnh phúc vô biên đối với tất cả chúng ta.




  • Liên Châu

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here