Trang chủ Nghiên cứu – Trao đổi Bàn về nụ cười trong văn học Thiền Việt Nam

Bàn về nụ cười trong văn học Thiền Việt Nam

147
0

Nụ cười là một hiện thực gắn liền với phần lớn sinh hoạt của con người. Đối với đạo Phật là đạo từ bi và giải thoát, nụ cười của đức Phật được xem là “nụ cười từ bi muôn thuở” và chúng ta nhớ đến kỳ quan “Đế Thiên Đế Thích”, mà một trong những nét đẹp trầm hùng của nó đó chính là “Nụ cười của đức Phật”: “Xe chạy vòng quanh đền Bayon, dưới nụ cười hiền từ của đức Phật Avalokitecvara rồi rẻ vào một đường hẹp ngập cát…Ở đây có năm mươi cái tháp, cái nào cũng cao trên mười thước. Có một trăm bảy mươi hai mặt người (tức bốn mươi ba đầu Phật, mỗi đầu có bốn mặt) lớn tới hai, ba thước, cái ở trên cao, cái ở dưới thấp, cái sáng một nửa, cái sáng một góc, cái sáng cả, cái tối cả , hướng về đủ bốn phương trời, và cái nào cũng có đôi mắt hiền từ, cũng có nụ cười khoan hoà, mỉa mai và bí mật…” (Đế Thiên Đế Thích, Du Ký của Nguyễn Hiến Lê, nxb Thời Mới, S, 1968, tr.24,41)

Đó là dấu ấn của “Nụ cười đức Phật” nơi điêu khắc, kiến trúc. Bài viết này xin bước đầu bàn về nụ cười trong văn học Thiền Việt Nam. Nụ cười đầu tiên trong thiền học, chính là nụ cười của tôn giả Ma Ha Ca Diếp, tương truyền ở hội Linh Sơn đối trước đoá hoa sen của đức Phật Thích Ca giơ lên giữa đại chúng.
 
Sau này, vua Trần Thái Tông (1218-1277) gương mặt thiền học suất sắt bậc nhất của Phật giáo thời thịnh Trần, trong 43 công án, công án được ghi chép nơi sách Khoá Hư Lục, ta thấy công án ba, nhà vua đã khắc lại sự kiện “Niêm hoa vi tiếu” kể trên:
 
          Cử:    Thế Tôn giơ cành hoa
                   Ca Diếp nở nụ cười
          Niệm: Dương mày mở mắt mà trong
                   Ca Diếp sớm nay đạt tới nhà
                   Vì bảo thế là truyền pháp yếu
                   Bắc viên thích Việt lộ còn xa
(Khoá Lục, Nguyên Đăng Thục dịch, nxb Khuôn Việt, S, 1972, tr.88-89)
 
Thiền sư Chân Nguyên (1646-1726), người có công rất lớn trong nỗ lực phục hưng Việt Nam cuối thế kỷ 17, nơi tác phẩm chữ Nôm “Yên Tử Sơn Trần, Triều Thiền Tông Bản Hạnh” cũng mô tả lại “Nụ cười Thiền học” khởi đầu ấy:
       
          “Thuở xưa hội ở kỳ viên
          Bụt cầm một đoá hoa sen giơ bày
          Ca Diếp trí tuệ cao thay
          Liễu ngộ tự tánh bằng nay mỉm cười
          Trần trần sát sát Như Lai
          Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen…”
(Dẫn theo Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập II, Văn Học, H, tr.127)

Nơi bài phú chữ Nôm “Thiền Tịch Phú” nụ cười của tôn giả Ca Diếp cũng được thiền sư Chân Nguyên nói lại:
        
 “Tổ Đạt Ma cửu niên diện bích
          Thần Quang đoạn tuý, lúc còn mê mặt khó đăm đăm
          Ca Diếp nhãn đồng, thoát chóc ngộ miệng cười khềnh khệch”.
(Dẫn theo Nguyễn Lang, sđd, tr.126)
         
Đó là nụ cười ngộ đạo.

Thiền sư Trung Hoa còn ghi lại trường hợp ngộ đạo của Thiền sư Thuỷ Lạo trong lần đầu đến tham bái Mã Tổ (707-786) hỏi về ý nghĩa của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma qua Đông Độ, được Mã Tổ tặng cho một đạp té nhào, lồm cồm bò dậy, chợt tỏ ngộ “chấp tay cười ha hả”. Sách “Ngữ Lục” của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung (1230-1291), phần “Đối cơ” đã nhắc lại sự kiện trên qua lời hỏi của một vị Tăng, và Thượng Sĩ đáp:      

Cái đạp đá của voi quý, chẳng phải sức lừa chịu nổi.

Lại hỏi: sau đó Thủy Tào còn nói lại với học trò của mình rằng, từ lúc ăn phải cái đá của Mã Tổ đến nay, ông cười mãi không thôi. Thế lại là nghĩa gì?
         
Lại nói: tôi không hiểu.
         
Sư bèn đọc kệ chỉ cho:
         
         “Một đạp đạt nhào
          Mấy ai thấm ý
          Đứng dậy cả cười
          Lại thêm buồn não
          Rõ lẽ Tây qua
          Ngựa tơ ăn cỏ”
(Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, Trúc Thiên dịch, Đại Học Vạn Hạnh xb,S, tr.32-33)
          
Đó cũng là nụ cười ngộ đạo.

Từ nụ cười mang tính nhất thể ấy, trong thơ Thiền Việt Nam, thỉnh thoảng chúng ta cũng gặp một số nụ cười với những tướng trạng khác nhau.

Có “nụ cười nhẹ” về tình quyến luyến của người đời đối với chuyện sanh tử:
         
         “Thu về chẳng báo nhạn bay theo
          Cười nhạt người đời uổng xót vay
          Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến
          Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay”
(Bài kệ Thị tịch của thiền sư Đạo Hạnh, Ngô Tất Tố dịch, Dẫn theo Thiền Uyển Tập Anh, bd, nxb Văn Học, 1990, tr.203)
         
Hoặc là “tự cười mình” vì sự bất lực của ngôn từ trong việc “truyền tâm”:
         
          “Kham tiếu Thiền gia si độ khách
          Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm”
          (Cữa Thiền những thẹn người si độ
          Để lại câu gì nghĩ chửa thông”
(Bài kệ Thị tịch của thiền sư Tịnh Giới, Ngô Tất Tố dịch, Sđd, tr. 136-237)
          
Cũng có thể là “nụ cười về mình” rất đáng trân trọng của thiền sư Huyền Quang (1254-1334), không chỉ là vị tăng thống có trách nhiệm lớn đối với giáo hội đương thời, mà còn là một nhà thơ yêu thiên nhiên, nghệ thuật:
         
         “Củi hết lò còn vương khói nhẹ
          Sơn đồng hỏi nghĩa một chơn kinh
          Tay cầm dùi mỏ tay nâng sáo
          Thiên hạ cười ta cứ mặc tình”
(Nguyễn Lang dịch, VNPGLS, S, 1974, tr. 370)
         
Trong văn học đời Trần hay nói chung là cả mãng văn học chữ Hán của văn học Việt Nam, thiền sư Huyền Quang thật đã xứng danh là “Nhà thơ của hoa cúc”. Sáu bài thất ngôn tứ tuyệt của ông viết về hoa cúc không chỉ có giá trị về nghệ thuật thi ca không mà còn bao hàm những giá trị về Thiền học. Đây là nụ cười của nhà thơ-thiền sư “với tất cả lòng từ bi khi nhìn thấy một thiếu nữ vì không thấy rõ bản chất mầu nhiệm của hoa cúc, đã hái hoa cắm đầy đầu trước khi ra về”:
         
         “Cười kẻ không hay hoa huyền diệu
          Khi về mái tóc giắt đầy hoa”.
(Nguyễn Lang dịch, Sđd, 374)
         
Hàm ý của nụ cười mang tính chất nhân bản ấy cũng có sức khơi gợi lớn của một công án Thiền học.
         
Nơi hai câu cuối của bài thơ đường luật thất ngôn bát cú “Đưa nhà sư Đạo Khiêm về núi”, Nguyễn Trãi (1380-1442) viết:
         
         “Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã
          Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa Thiền”
          (Lẩm cẩm già rồi đừng lạ tớ
          Chia đường tớ cũng sẽ theo Thiền”.
(Đào Duy Anh dịch, Nguyễn Trãi toàn tập, 1976, tr.353-354)
        
 Sư Đạo Khiêm vốn là bạn thân của Nguyễn Trãi, sau mười lăm năm xa cách gặp lại nhau, cùng ngủ một đêm với nhau để tâm sự, và khi chia tay, Nguyễn Trãi đã tự hứa với mình như thế. Nụ cười mỉm của Ức Trai rõ ràng đã mang một ý nghĩa tự khám phá.
        
 Chúng ta cũng sẽ nhận thấy tính chất tự khám phá tương tự nơi nhà thơ Cao Huy Diệu thời Tây Sơn, trong bài thơ “Lên thăm chùa Tiên Sơn lần trước”, ông kết luận:
         
         “Cước hạ giang sơn kỳ bán cục
          Thao thao lãnh thiếu học đồ mê”
          (Thế giới dưới chân cờ nữa cuộc
          Cười ai bể trọc chửa nhìn ra).
(Ngô Linh Ngọc dịch, văn học Tây Sơn của Nguyễn Lộc, 1986, tr.382-383)
         
Trong cữa Thiền có một nụ cười rất đáng chú ý là nụ cười của Phật Di Lặc. Di Lặc là vị bồ tát có mặt nơi phần lớn các kinh điển của Phật giáo Bắc truyền, được đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký là sẽ thành Phật vào đời vị lai với đạo tràng là Hội Long Hoa. Thời Ngũ Đại (907-960) của lịch sử Trung Quốc, như thiền sư đã ghi lại, có một vị thiền sư hiệu là hòa thượng Bố Đại, cuộc đời và hành trạng rất kỳ lạ, về sau nhờ bài kệ Thị tịch mới biết đây là hiện thân của Phật Di Lặc. Do vậy, các tượng Phật Di Lặc ở Trung Hoa và Việt Nam được tạc theo hình ảnh của vị hòa thượng kia: bụng phệ, người phốt pháp, nụ cười rạng rỡ, với sáu đứa trẻ tượng trưng cho “sáu giặc” đã được Ngài hàng phục.
         
Nhà thơ Đào Tấn (1845-1907) hầu như rất tâm đắc với nụ cười của Phật Di Lặc. Ông đã có hai bài thất ngôn tứ tuyệt viết về nụ cười ấy.
         
Bài thứ nhất nhan đề: “Hứng viết trong đêm thăm điện Di Lặc”:
         
          “Di Lặc nguyên lai bản đại hùng
          Lãn tàn cao hứng Phạm vương cung
          Cổ kim quân độc an bài đắc?
          Thương hải phù vân nhất tiếu không”
          (Di Lặc cũng là bậc đại hùng
          An nhiên ngồi ngự Phạm vương cung
          Xưa nay muôn việc ông sắp đặt
          Bể dâu mây nỗi cười như không).
(Thơ và từ Đào Tấn, nxb Văn Học, 1987, tr.215, phần dịch thơ là của chúng tôi)
         
Bài thứ hai mang tên “Phật ở mình” (Tự Phật) phản ánh chổ thấu đạt về thiền học của ông Đào:
         
          “Hòa nam khấu thỉnh Di Lặc Phật
          Phúc tung hứa đại tàng hà vật
          Tiếu vân trung hữu nhất đoàn băng
          Chỉ vị không không vô xứ ngật”
          (Đảnh lễ thưa cùng Phật Di Lặc
          Bụng chứa những gì con muốn biết
          Cười rằng tâm trung vốn như như
          Thảy là không không vượt sinh diệt”.
(Sđd, tr.217, Phần dịch thơ là chúng tôi)
         
Từ nụ cười của tôn giả Ma Ha Ca Diếp, đến nụ cười của thiền sư Bố Đại, Phật giáo đã có đến 1500 năm truyền bá, gắn bó với đời, và từ đó đến nay sự gắn bó ấy vẫn phát triển liên tục. Xét về khía cạnh triết lý, chỉ với nụ cười của Phật Di Lặc-qua sự diễn tả rất tâm đắc của Đào Tấn: “Biển dâu, mây nổi, cười như không” cũng đã góp cho đời bao nhiêu là giá trị về nhân sinh rồi.

N.T

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here