Trang chủ Nghiên cứu – Trao đổi Thẩm mỹ vô thường và thường của Phật giáo

Thẩm mỹ vô thường và thường của Phật giáo

107
0

Căn cứ giáo lý nhà Phật để phân định thì phạm trù vô thường đứng đầu một hệ thống giáo lý có bốn pháp là “vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh”, còn được gọi là bốn pháp quán niệm. Giáo lý này, đức Phật dạy cho hàng Thinh văn, Duyên giác, nói chung là các hành giả đệ tử thích nương tựa trong giáo pháp, dấn thân tu tập, đang còn trong thời kỳ tu học, biết hành trì quán niệm bốn pháp này, biết nhận thức trước các pháp để làm chủ được chính mình. Trong mỗi con người đề có sáu căn là mắt, tai, mũi ,lưỡi, thân, ý. Nơi sáu căn này có sáu thức là thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm xúc, biết. Và khi đối diện với sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà con người vẫn giữ được nhận thức, biết rõ các pháp vốn “vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh”, không hề bị giao động hay ô nhiễm, không bị lục dục, thất tình phát sinh, kềm chế được chính mình, không gây tội ác. Sai quấy do tham, sân, si chấp thủ tạo nên. Nói theo ngôn ngữ mỹ học, chúng ta có thể xem đây là vùng khách thể, đối tượng của chủ thể thẩm mỹ.

Còn phạm trù “thường” thì đứng đầu hệ thống giáo lý cũng có bốn pháp là “thường, lạc, ngã, tịnh”, còn được gọi là tứ đức Niết bàn. Giáo lý này, đức Phật chỉ bày cho hàng Thinh văn A-la-hán hay Bồ-tát, nói chung là những hành giả có trình độ cao, tinh thông, thể nhập, thân chứng hay đắc đạo. Tức tự mình có khả năng là hiện thân của “thường, lạc, ngã, tịnh” ở mọi chỗ, mọi nơi, mọi cảnh giới và mọi lúc, kể cả khi thân tứ đại con người còn sống hay khi lìa bỏ nó (chết đi), hành giả đều có năng lực chủ động trước các pháp. Tuyệt đối không còn tham, sân, si, tội ác, sai quấy. Đứng về góc độ mỹ học, chúng ta có thể xem như đây là vùng chủ thể thẩm mỹ, chủ thể sáng tạo nghệ thuật.

Cho nên từ lâu, dù Phật giáo, ít nhiều bị mang tiếng là triết học duy tâm nhưng tuyệt nhiên không hề giống và hoàn toàn trái ngược quan điểm Platon, khi ông cho rằng “nghệ sĩ là một cái gì nhẹ nhàng, bay bổng và thiêng liêng. Anh ta chỉ có thể sáng tạo khi đã phấn khích đến cuồng loạn, khi ở anh ta không còn lý trí nữa. Và đó, theo Platon, cũng là niềm hạnh phúc vĩ đại nhất diễn ra theo sự ban tặng của thần linh đối với nghệ sĩ” (1).

Đến đây, chúng ta có thể đi vào vùng sâu thẳm của ý thức, thầm lặng nhưng hùng tráng, đơn sơ mà trác tuyệt của các vị thiền sư, các vua quan cư sĩ tiêu biểu qua văn chương thơ văn Lý-Trần.

Trước hết bài thơ “Thị đệ tử” của Thiền sư Vạn Hạnh, cho chúng ta bài học thâm thúy, chẳng những về lẽ tử sinh mà còn về cả sự tốt, xấu, thịnh, suy ở đời:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Nghĩa là:

Thân như ánh chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi, thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông. (2)

Trong “Lịch Sử Việt Nam” tập I do Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam biên soạn và xuất bản năm 1971, trang 151, có ghi: “Sang đời Lý, nhất là trong khoảng thế kỷ XI, công việc xây dựng đất nước bắt đầu bước vào quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự phát triển của dân tộc và quốc gia phong kiến độc lập”.
Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ (974 – 1028), người mở đầu một triều đại hơn hai trăm năm (1009-1225). Người có công đưa Lý Công Uẩn lên làm vua lại chính là Thiền sư Vạn Hạnh, người làng Cổ Pháp thuộc Bắc Giang, tỉnh Hà Bắc ngày nay, đặc biệt lúc nhỏ đã học thông tam giáo và rất sùng mộ Phật giáo. Cho nên ngoài khả năng Phật học, Thiền sư còn có biệt tài về chính trị, tiên liệu được thời cuộc bằng những bài thơ sấm truyền để tạo ra nguồn dư luận qua thông tin truyền khẩu, đạt kết quả cao nhất theo ý mình.

Sáng tác văn thơ của Thiền sư được sưu tầm trong thơ văn Lý-Trần hiện chỉ còn năm bài, trong đó có hai bài “sấm” để tạo điều kiện đưa Lý Công Uẩn lên làm vua và bài cuối đời chính là “Thị đệ tử”.

Nếu như bài thơ được sáng tác trong thời điểm khác thì nó chỉ có giá trị như một bài kệ pháp truyền bá giáo lý có dung lượng quan điểm triết học Phật giáo nói về thịnh, suy, sinh, tử như phần đông các vị đạo sư khác thường làm. Giá trị đặc sắc là nó được sáng tác ở đỉnh cao của tâm hồn trước sự sống và chết, có và không, còn và mất.

Người ta không biết rõ Vạn Hạnh sinh vào lúc nào, chỉ biết lúc mất là năm 1028. Được Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) phong làm Quốc sư từ năm 1010. Trong bài văn Ngài khuyên Lý Công Uẩn vào năm 1008-1009 có đoạn ghi:

“Tôi đã hơn bảy mươi tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết để xem đức hoá của Ông thế nào, thực là sự may muôn năm mới gặp một lần” (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản dịch của Cao Huy Du).

Dựa theo đây, chúng ta có thể phỏng định sau mười tám năm làm Quốc sư, Ngài mất trên dưới chín mươi tuổi. Vạn Hạnh chẳng những có công giúp Lý Công Uẩn lên ngôi mà còn giúp vua trong việc dời kinh đô từ Hoa Lư về Đại La tức Thăng Long để được hùng khí đến ngày hôm nay, đúng như lời trong “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn nói là “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”. Nói theo lẽ thông thường, Ngài đã “công thành danh toại” cả hai mặt Đạo và Đời.
Về nhân sinh quan, Ngài đã thấu suốt định luật vô thường: “Thân như ánh chớp có rồi không”. Về thế giới quan, trước cảnh vật thiên nhiên, Ngài cũng thấy rõ tính biến đổi vô thường của nó “cây cỏ xuân tươi, thu não nùng”.

Cái thẩm mỹ, cái đẹp, cái trác tuyệt nơi tâm hồn Thiền sư (chủ thể thẩm mỹ) là biết thân vô thường nhưng không bi quan, không lo sợ trước vô thường, chủ động đem cái thân vô thường hành động phục vụ lợi ích, hạnh phúc cho chúng sinh, mà cụ thể trước mắt là đồng bào, dân tộc.

Vô thường và thường tương tự như hai mặt của một tờ giấy. Giác ngộ thì là cái đẹp, cái trác tuyệt; không giác ngộ (không thấu triệt) thì nó sẽ trở thành bi kịch, vì khi biết thân vô thường rồi bi quan, chán nản, bế tắc cuộc sống, tự vận v.v… đều xem như là bi kịch do sợ hãi trước cái vô thường hay nói hài kịch, là dù biết thân vô thường nhưng lại cứ tham sống sợ chết, sống dở chết dở, tức có cái sống không ý nghĩa mà chết thì chết trong sợ hãi !

Về mặt chủ thể sáng tạo nghệ thuật nơi Thiền sư cũng tuyệt vời. Bởi Ngài chủ động biết lúc nào sáng tác (công bố) bài thơ để làm sáng tỏ được tinh thần giác ngộ của đạo Phật về lẽ vô thường của con người và cảnh giới xung quanh. Đồng thời cũng biểu thị cho đệ tử thấy rõ giá trị của một kiếp người hoàn thiện với đầy đủ ý nghĩa sống phụng sự an lạc, lợi ích cho quần sinh đến hơi thở cuối cùng, tức biết đem cái vô thường của bản thân mà cống hiến cho dòng SỐNG THƯỜNG của con người trong cuộc đời. Ở đây, giá trị thẩm mỹ, cái đẹp về tinh thần nhân bản nhân văn được toả lên ngời sáng, nó hoàn toàn trái ngược với trạng thái của người hiểu biết về vô thường nhưng lại không làm chủ được cuộc sống mà rơi vào bi quan, yếm thế, tiêu cực, có những trường hợp chối bỏ cả cuộc sống. Điều này rất dễ gây nên sự ngộ nhận và làm lu mờ, mai một tính thẩm mỹ, cái Đẹp của Phật giáo đối với cuộc sống nhân sinh.

Thiền sư Vạn Hạnh đã giải thích tinh thần giác ngộ về vô thường và thường bằng cả cuộc đời hành động cũng như sau khi Ngài qua đời “mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi”. Ngài mượn sự thịnh suy để chỉ bày cho môn đồ đừng sợ hãi lo lắng trước sự sống và chết, có và không, còn và mất (tức lẽ vô thường) của con người hay các pháp trong đời, kể cả sự đứng ngừng chấm dứt sự sống của bản thân mình, vì Ngài đã thấu đạt tính chơn thường của vạn hữu “kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”. Đã là giọt sương thì không thể nào tồn tại lâu dài, nhưng điều kỳ diệu là nó mất hoài và cũng cứ có mãi. Từ đây, triết lý về cái chết cũng được khẳng định, có không, còn mất, thịnh suy… nó là những phạm trù bất tận của con người và cả thế giới trần gian này.

Ôi! Cuộc sinh sinh, hoá hoá của vạn sự, vạn vật và của con người trên trái đất này cũng bất tận. Sự hiện hữu của hàng triệu, hàng tỷ con người hôm nay và mãi mãi về sau là một bằng chứng thực tế để chúng ta thẩm định giá trị thẩm mỹ tuyệt vời của những dòng thơ của một thời đại thi ca đi qua.

Thiền sư Mãn Giác (1052-1096) đã chuyển hoá giáo lý vô thường và thường thâm nhập hoàn toàn vào những áng văn chương lấp lánh đầy màu sắc triết học, mỹ học, thiền học, thiên nhiên và con người.

Bài thơ làm nỗi bật nét đẹp về sự an tịnh của thiền sư (chủ thể thẩm mỹ, chủ thể sáng tạo nghệ thuật) trước sự sống và cái chết của con người (đối tượng thẩm mỹ), vượt khỏi cái bi, cái hài mà chỉ còn một dấu ấn duy nhất là sự tự tại, sự bình thản hồn nhiên như đang đi dạo trong vườn mai mùa Xuân (cái đẹp, cái trác tuyệt) tức sự tồn tại của văn hoá thẩm mỹ qua bài thơ “Cáo tật thị chúng” (Có bệnh bảo mọi người):

Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Nghĩa là:

Xuân ruỗi trăm hoa rụng,
Xuân tới trăm hoa cười.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước một cành mai. (3)

Kiếp sống con người đang mạnh mà bệnh là vô thường. Bệnh rồi chết cũng là vô thường nhưng đồng thời cũng là bi kịch đối với tình thân. Vậy mà trước khi chết, biết mình đang bệnh sắp chết, thiền sư chủ tâm truyền đạt cho đệ tử thấy thế nào là kiến tánh thành đạo, là giác ngộ lẽ vô thường (bi kịch và khổ), để đến với thường là cái đẹp, cảnh giới an vui – Niết-bàn.

Bằng một phong thái tự tại, tự tại tuyệt đích – vừa thiền sư, vừa thi nhân, vừa nghệ sĩ… với một cành mai, một mùa xuân, một mái đầu… thiền sư đã cho chúng ta thấy sự đến, đi và trở lại của một con người trước sự sống, cái chết và sự sống (vô thường và thường vốn không hai) :

Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa cười.

Hoa rụng con người bi thương, hoa cười con người hạnh phúc. Cái bi thương hay hạnh phúc rồi cũng qua mau, chỉ có sự vĩnh hằng là mùa Xuân tươi thắm.

Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi.

Chỉ sự chuyển biến của cuộc vô thường, cuộc vận hành dài “trước mắt việc đi mãi” để nhắc nhở con người trực nhận sự vô thường nơi chính mình “trên đầu già đến rồi”.

Nó đến, biết nó đến là một thực tại, tuyệt đối không hề bi thương, không hề nuối tiếc! Cùng lúc, từ tác giả chúng ta thấy đầy đủ cả – chủ thể thẩm mỹ, chủ thể sáng tạo nghệ thuật và chủ thể cảm thụ nghệ thuật. Nhưng cái đẹp chưa dừng ở đây mà nó còn biến ảo kỳ diệu trong sự hiện hữu trong sự thường hằng của mùa xuân bất tận:

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.

Làm con người đứng trước bờ vực thẳm của sự sống và cái chết mà lại có được cái ý thức chơn như tự tại, xem cái chết như sự chấm dứt và trở lại của một mùa xuân thì thiết tưởng không còn giá trị thẩm mỹ nào đẹp và trác tuyệt hơn ?

HT. T.G.T

Chú thích:
(1) Hoàng Thiệu Khang, Mỹ học, Đại học Tổng hợp TP HCM xuất bản năm1985, trang 9.
(2) Ngô Tất Tố, Văn học đời Lý, NXB Khai Trí, Saigon 1960.
(3) Ngô Tất Tố, Văn học đời Lý, NXB

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here