Trang chủ Vấn đề hôm nay Chiến tranh và hoà bình theo quan điểm của Phật giáo: Phần...

Chiến tranh và hoà bình theo quan điểm của Phật giáo: Phần 6

112
0

Peter Harvey

Trung Quốc

Như ta đã thấy, kinh Đại Thừa có một đoạn cho phép sát sinh trong nghịch cảnh trừ khi việc này được bắt nguồn từ lòng từ tâm và thực hiện với thiện xão. Những trong mức độ nào thì cách lý giải về sử dụng bạo lực này có phản ảnh được việc tu tập của Phật tử tại Đông Á không? Ở Trung Quốc, giới luật của tu viện có ghi ra điều thứ nhất là việc loại ra khỏi tăng đoàn một nhà sư có ý định giết người, thay cho điều thứ ba của giới luật nhằm đặt tầm quan trọng của vấn đề.[i] Đến tuổi thì các Phật tử nổi tiếng về cách trốn tránh thi hành nghĩa vụ, và những người không là Phật tử than phiền một sự thật là các sư tăng lại đưọc miển đăng ký nghĩa vụ.[ii]  

Tuy thế, một trong những lý do giải thích tại sao những người không phải là Hán tộc ở vùng Hoa Bắc theo đạo Phật lại được hưởng nhiều ơn phước mầu nhiệm trong thời kỳ chiến tranh.[iii] Dù họ quan tâm đến tu tập, sư tăng đã giúp họ hướng nhiều hơn về những phương cách hiếu hoà. Qua nhiều thế kỷ, quân đội Nhật và Trung Quốc đã dùng biểu tượng Phật giáo, cờ phướng gây thêm sức hành động và hăm doạ đối phương. Thiên Vương Tỳ Sa Môn, Vaisravanan, một trong Tứ Đại Thiên Vương của Phật giáo cổ điển đã trở thành nghi lể chính trong thời nhà Tần, Trung Quốc, nhằm bảo đảm thắng trận để bảo vệ chánh pháp. Ở Nhật thì vị này cũng như là thần linh phù hộ cho binh sỉ. Phật tử Trung quốc và Nhật bản cũng đã đưa các vị thần chiến tranh không thuộc Phật giáo vào trong đền đài thí dụ như Shinto kam a Hachiman, đưọc coi như là Bồ tát.[iv] Các vị vua Trung quốc đôi khi cũng dùng đến những luận giảỉ của Phật giáo để sử dụng bạo lực. Năm 581, sau khi Tuỳ Văn Đế, Wenti, đã thiết lập nhà Tuỳ, Sui, ông tự tuyên bố mình là minh vương Calkkavatti. Ông nói chúng ta coi vũ khí chiến tranh toả ra cho chúng ta hương trầm và hương hoa. Ông nguyện tu theo hạnh Bồ tát và cho rằng chiến thắng của ông chấn hưng Phật giáo và ông là ngưòi bảo trợ hào phóng cho Phật giáo.[v] 

Ở Trung Quốc đã có một vài vụ dinh liú của tăng sư với bạo lực: Những cuộc nổi dậy, khởi nghiã hay chống đối của nông dân có tổ chức, dù được khơi mầm hay gợi ý từ những Phật tử không hề thiếu taị một số điạ phương dù không trở thành chủ yếu trong lịch sử Trung Quốc, như đã xảy ra tại Nhật. Các địa phương liên kết nhau trước sự yếu kém của nhà nước tâp trung vào trung uơng như tại Nhật. Khi quyền kiểm soát ở trung ương yếu đi, tôn giáo trở thành phong kiến cũng như xã hội, ngưòi ta thấy rằng các sư tăng từ trong dân chúng lại tạo ra bè nhóm có vũ trang hoặc tự đặt mình vào vị thế lãnh đạo các nông dân. Tất cả đều có sự cấu kết của cường hào ác bá địa phương muốn dành tự trị.[vi] 

Nhật Bản 

Tại Nhật, Phật tử can thiệp vào sinh hoạt nhà nước công khai hơn tại Trung Quốc. Thực vậy, đã có một sự phối hợp giửa Phật giáo và nhà nước từ khi Phật giáo du nhập vào Nhật từ năm 538 sau công nguyên. Đến thế kỷ thứ X trong triều đại Bình An, Heian (794-1185), trật tư xã hội đã bị đảo lộn và một chính quyền trung ương mạnh không được tái lâp cho đến khi triều đại Đức Xuyên, Tokugawa (1603-1867). Trong thời kỳ mà một xã hội phong kiến phát triển thì can thiệp của các lãnh chúa địa phương chiếm ưu thế, ngay cả đến một đề án nhằm thống nhất đất nước thúc đẩy các phe phái đồng thuận về sự thống lãnh này.[vii] Đây là thời của các sòhei, hay các sư tăng lãnh đạo, việc này được coi như là một phần trong sinh hoạt đất nước.[viii] Một yếu tố trong các sự kiện này là các tu viện là trung tâm quyền lực chính trị và nơi cấp phát đất đai trong thời ký bất ổn xã hội trong khi quyền lực chính trị chỉ là chuyện tha hồ dành giật cho bất cứ ai. Một yếu tố khác nửa là Phật tử Nhật đồng hoá mạnh mẽ mình với các tu viện hay các tăng đường, họ trở thành nhiều môn phái, đến đổi mà sự khác biệt các tông phái này quá rỏ nét hơn các nước khác theo Phật giáo.[ix] 

Vào thời Bình An, giới quý tộc trị vì, vừa hoang phí vừa đàn áp, đã đòi hỏi tăng thuế và bắt dân làm việc nhiều hơn. Dân chúng phải tìm cách ẩn lánh vào các chuà vì là nơi được miễn mọi sưu dịch. Một vài người vào chùa ở và không chỉ mang danh là sư mà thôi, lại được chùa cấp đất cho họ. Chùa cũng sử dụng một lực lượng có vũ trang nhằm gìn giử đất đai của mình chống lại nhà nước và sứ quân. Các sư tăng cũng có vũ trang nhằm chống lại các lãnh đạo môn phái của mình, thường là những ngưòi có gốc quý tộc hay có quan hệ với triều đình. Vào năm 1100, tất cả mọi tu viện lớn của Nhật đều  theo môn phái Thiên Thai, Tendai, một tông phái được thành lập cùng khắp và đều có vũ khí để bảo vệ quyền lợi của mình.[x] Một bản kinh chính của môn phái Thiên Thai là Kinh Đại Niết Bàn, Mahảparinivàna Sutra, có ghi lại nhiều đoạn kinh cho phép sử dụng bạo lực để bảo vệ chánh pháp. Cùng vào thời phát triển này, các sứ quân địa phương đã tạo nhiều cuộc nổi loạn nhằm chống triều đình.[xi] Xung đột phong kiến và tranh giành sứ quân bộc phát mà trong đó cũng có tranh giành giửa các môn phái và hoàng gia, giửa các môn phái và các sứ quân và giửa các môn phái với nhau.[xii] 

Trong thời kỳ Liêm Thương, Kamakura, đầy hổn loạn (1192-1333), quyền lực của nhà nước trung ương bị hoàn toàn tan biến. Luật lệ là do giai cấp tướng quân, shogun, và các võ sĩ, bushi, làm ra. Chính giới võ sĩ đã giúp Phật giáo phát triển trong dân chúng, mặc dù họ cố dẹp bỏ những gốc tích xâu xa. Những tinh thần tự kỷ luật về đạo đức hay những nguyên tắc tu tập thiền định, coi thường cái chết, giúp cho võ sĩ chống trả lại âm mưu tấn công của người Mông cổ vào năm 1274 và 1281.[xiii] Thiền sư Minh Am Vinh Tây, Eisai, (1141-1215) lập ra môn phái thiền Lâm Tế, Rinzao, được sứ quân bảo vệ tại thủ đô Kamakura, giúp cho sự liên kết giửa Lâm Tế và võ sĩ được bền vửng. Các thiền sư thuộc môn phái Lâm Tế đã dạy cho các võ sĩ là những người chiến đấu trầm tỉnh, can trường, kỷ luật, không biết sợ hải trước cái chết. Điều này có thể xem như là một mẩu mực cho những thiện xảo trong những hình thức nhằm đưa Phật giáo thích nghi vào cuộc sống cho từng nhóm người riêng biệt trong dân chúng. Võ sĩ đã ca ngợi tinh thần kỷ luật, dung dị và trực diện của Thiền. 

Nhà cải cách quân phiệt, quốc gia cực đoan Nhật Liên, Nichiren (1222-82) và cũng là người từng sáng lập tông phái Thiên Thai, đã lập ra tông phái mới, Nhật Liên Tông, kêu gọi chính phủ đàn áp những tông phái Phật giáo khác, vì ông coi các tông phái này làm suy yếu đi nươc Nhật, nhưng ông không thành công. Để hổ trợ cho những lập luận của mình ông trưng dẫn kinh Đại Niết Bàn, Mahà-paranivảna Sutra. Tông phái này gặp phải sự xung đột với Tịnh Độ Tông, Jodo Pure Land, đặc biệt là chi phái Tịnh Độ Chân Tông, Jòdo shin. 

Thời kỳ Túc Lợi Mạc Phủ, Ashikaga, (1333-1573) là một thời kỳ hổn loạn thường xuyên, được cai trị cùng lúc của hai vua theo quy luật của hai sứ quân tranh quyền. Chi phái Tịnh Độ Chân Tông trở thành trung tâm của mọi tu viện kiên cố, tín đồ có vũ trang, cã tăng sĩ lẩn cư sĩ, nhằm bảo vệ tín ngưỡng và quyền năng của Đức Phật A Di Đà. Họ chiến đấu cuồng tín và tin rằng mình sẽ được tái sinh vào cõi tịnh độ nếu họ bị giết. Vào thế kỷ XVI tông phái này đã tổ chức và lãnh đạo nông dân nổi dậy và nắm quyền tại một khu vực của Nhật.[xiv] Thế kỷ này cũng chứng kiến được các Phật tử Nhật Liên Tông tấn công vào các cơ sở của Tịnh Độ Chân Tông và Thiên Thai Tông.

Thiên Thai Tông đã duy trì đạo quân của mình và Chân Ngôn Tông, cũng làm như vậy. Năm 1409, các sư của Thiên Thai Tông đã phổ biến tài liệu sau đây mà thường quy kết cho là của Ryògen (912-85): „Không có văn hoá văn chương thì sẽ không có nghi lể biệu lộ lòng kính yêu đối với các bậc trưởng thượng, không có quân đội thì sẽ không có phương tiện để gây ấn tượng với các thuộc hạ. Thế gian sẽ được bình an nếu văn hoá và quân đội bổ sung cho nhau.“[xv] 

Họ còn cho rằng trong thời kỳ này chánh pháp đã suy vi, dân không còn tôn kính tôn giáo. Do đó, cần phải có shuto, một nhóm người được tuyển ra từ các sư tăng kém năng lực, để ngăn ngừa mọi bất ổn nơi tu viện, mọi dị giáo và tạo điều kiện cho việc tu tập và thiền định.[xvi] Tiểu sử của Royen cho thấy  cùng thời gian này Royen đã thúc dục các vị sư của Thiên Thai tông dùng vũ khí để bảo vệ sự chính thống của các kinh sách Đại Thừa chống lại mọi dị giáo.[xvii] 

Tuy thế, vào thời kỳ Túc Lợi Mạc Phủ, Ashikaga, thiền viện là nơi trú ẩn về an toàn, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật mà một phần Thiền Lâm Tế đã có những ảnh hưởng sâu đậm. Thiền sư không tham gia vào các đấu tranh có vũ trang, mặc dù họ huấn luyện cho các võ sĩ và che chở cho các võ sĩ này khi cần thiết.[xviii] Lý tưởng của Thiền tông về sự vô tâm và về phản ứng tự nhiên đột hiện mà không ràng buộc bởi tinh thần chấp trước đã ảnh hưởng đến kiếm thuật. Khi xem chuyện sống chết như là một hiện tượng vô nghiả, thì lý tưởng này giúp cho ta không do dự, không sợ hải trước cái chết. Suzuki đã trích một bài thơ Nhật từ thời trung cổ nói về tinh thần vô tâm này với trích đoạn sau đây 

But striking is not to strike, nor is killing to kill

He who strikes and he who is truck

They are both no more than a dream that has no reality [xix] 

Nhưng tấn công không phải là tấn công và giết không phải là giết

Người tấn công và người bị tấn công

Cả hai đều không hơn một giấc mơ, mà giấc mơ này không hiện thực

(Bản dịch xuôi của Phan Tấn Hải) 

Đánh người, tâm vô tư

Giết người, lòng cũng chẳng

Kẻ công như người thủ

Ta, người có thc chăng

(Bản dịch thơ của Lê Cao Bằng) 

Chuyên luận về những trầm tư tối thượng là một bản vănThiền vào đời nhà Tần Trung Quốc thế kỷ thứ VII đã giải thích rằng chỉ có điều ác trong khi giết người là có tội, nếu như kẻ sát nhân không coi chuyện chết như hư không và giống như mơ. Đến chừng nào mà người ta nhận ra một người hay một sinh vật thoát thai từ hư ảo, thì người ta không thể giết được một con kiến. Dù vậy, một người khi chối bỏ quan niệm này có thể giết người một cách tương tự như những thiên tai như giông bảo hay đá sụp chết người.[xx] Ngay cả khi cáo buộc rằng một người đã hiểu được sư hư aỏ của cuộc đời cũng có thể giết người được, thì điều này không thuyết phục. Những người như thế phải biết rằng chính họ và vị thế của họ cũng là hư ảo luôn.        

Vào cuối đời mình thì đôi khi các các võ sĩ  dành thì giờ để suy nghiệm tại các tu viện. Nhưng khi họ còn hoạt động, đôi khi họ lại chấp nhận nghiệp sắt máu của mình vì đã sinh ra trong gia đình võ sĩ như là một quả nghiệp trong quá khứ. Taị Nhật, vì quá tôn sùng vào lòng trung thành với gia đình và truyền thống nên những quan điểm sai lầm về quả nghiệp càng sâu đậm.[xxi] 

Hai sứ quân quyền lực nhất đã dẹp tan những tu viện có vũ trang, với những trung tâm của Thiên Thai Tông trên núi Hiei, việc phá hủy này làm hàng ngàn cư dân bị giết, không có chết các tăng sư.[xxii] Chiến dịch bình định hoá này đã giúp thiết lập triều đại Đức Xuyên, Tokugawa (1603-1867) khi đất nước được thống nhất dưới sự lãnh đạo độc tài quân phiệt. Thời kỳ này Nhật Bản đã bế môn toả cảng chỉ trừ một vài thương nhân từ thế giới bên ngoài. Đến thế kỷ XVI thì người Bồ Đào Nha đã du nhập Thiên chuá giáo vào Nhật. Nhiều nhà lãnh đạo đã tạo thuận lợi cho việc truyền giáo với cả bạo lực cốt để ngăn trở quyền lực của các tu viện Phật giáo. Hiện nay, việc ngược đải nhẩn tâm này được coi như là một thái độ có thể bị ảnh hưởng ngoại bang và chỉ là sự tranh đấu cuả một vài tôn giáo bí mật. Năm 1614, Phật giaó được thiết lập thành giáo hội và là cánh tay của nhà nước. 

Qua nhiều thế kỷ thì giới võ sĩ quý tộc lãnh chúa được biết nhất là kiếm sĩ Samurai, thuật ngữ này gốc để chỉ những người lính chuyên nghiệp xuất thân từ các tầng lớp thấp trong xã hội hơn giới võ sĩ bushi.[xxiii] Các lãnh chúa thời xa xưa đã ngộ được thiền trong một chừng mực nào đó, nhưng áp dụng các phép việc tu tập thiền vào áp dụng trong kiếm cung, kết hợp vào các giá trị tâm linh, đây là một hiện tượng chủ yếu chỉ có trong thời kỳ Đức Xuyên, Tokugawa, một thời kỳ mà đất nước sống bình yên và giới kiếm sĩ hưởng nhiều nhàn nhã. Võ thuật của ngày xưa, bujutsu, liên hệ đến hiệu năng trên chiến trường, thì nay trở thành budò, một phương cách võ thuật nhắm vào việc đào tạo tâm linh và đạo đức,[xxiv] mà bendò là một thí dụ về phương thức. Bằng cách này thì ảnh hưởng của thiền có thể tìm thấy trong việc nhấn mạnh đến tập trung thiền định, kỷ luật và kham khổ, không dùng ngôn ngử đối thoại trực tiếp giửa thầy và trò.[xxv]

Takuan Sòhò Zenji (1573-1645) khi dạy thiền cho người khấn nguyện làm võ sĩ ngay trọn đời đã tìm cách đưa cho họ suy nghĩ đến vấn đề này qua các ngôn ngữ thiền. Ông diển giảng về tinh thần vô tâm trong Fudòchi shinmoyoroku: „Tinh thần vô tâm cũng giống như tinh thần nguyên thủy. Đó là một tâm trạng cố bỏ mọi sự cứng nhằc, áp đặt và phân biệt hoá và khái niệm các vấn đề tương tự. Nếu người ta có thể thực tập được tinh thần vô tâm này xuyên suốt thì sẽ không dừng lại trước một sụ vật đơn thuần nào và cũng sẽ không mất nó.“[xxvi] Sự thích nghi uyển chuyển này chắc chắn là có giá trị dù trong một cuộc đời bình thuờng hay cuộc đời của một võ sĩ, dù trong nguy biến hay tu tập. Takuan không hề chống lại việc áp dụng các phương pháp tu thiền cho các kiếm sĩ: „Gươm ra khỏi vỏ mà không có ý muốn của gươm. Đó là tâm trạng trống rổng. Nó giống như một luồng ánh sáng. Người sẽ bị đánh bại cũng ở trong tâm trạng trống rổng cũng như khi một ngưòi cầm gươm. Đừng bận tâm nửa với thanh gươm anh đang đeo, hảy quên những gì đang làm và chống quân thù. Đừng để tâm vào người đang đứng trước mặt anh. Tất cả họ chỉ là hư không, nhưng hãy giử tâm mình đang bị hư không vây hảm.“[xxvii]

 

Những ý nghĩ như vậy có vẻ nguy hiểm về mặt đạo đức, nhưng Takuan đã thích ứng lời giáo huấn cho những người đã khấn nguyện chiến đấu từ thuở lọt lòng. Ông cũng nhấn mạnh đến đức tính thiện cảm và từ tâm. Dù là giết hay cứu người, một người hoàn thành nhiệm vụ hành động với tinh thần tập trung cao độ, và nhất là không chú trọng vào việc phải quấy, người ta có thể phân biệt đúng sai.[xxviii] Thời kỳ này tác phẩm của Takuan đã gây ảnh hưởng vào sự thành hình kiếm thuật của Nhật, mặc dù đạo đức Khổng giáo và nghi lể của Chân ngôn tông, Shingon, cũng gây ảnh hưỏng song hành với thiền.[xxix]

Thiền trở thành một trong những ảnh hưởng vào đạo đức của chiến binh, nổi danh như võ sĩ đạo, Bushido.[xxx] Việc này bắt nguồn từ những giá trị của các lãnh chúa trước kia và Khổng giáo[xxxi] khi nhấn mạnh đến tinh thần trung thành đối với các lãnh chuá phong kiến, tự hy sinh, giử gìn thanh danh gia đình, sức mạnh, thiện xảo, vô úy, tự kiềm chế, thư thái trước cái chết, tâm hào phóng.[xxxii] Trong thời kỳ Đức Xuyên, Tokugawa, giá trị học vấn theo Khổng giáo được tôn trọng, dù vậy, điều này làm cho khuynh hướng Samurai coi thường các giai cấp khác trong xã hội lại tăng lên. Điều tệ hại nhất của việc này là tự nó biểu hiện ra làm tổn thương đến tầng lớp bình dân. Tuy nhiên, giá trị của Khổng giáo về lòng nhân và quân tử và tinh thần hy sinh của Phật giáo cũng có nghĩa là các võ sĩ trở thành các quan lại có hiệu năng cho đất nước nếu tính theo bậc thang về nghề nghiệp. 

Từ đó cho đến nay, nói chung thì việc huấn luyện nghiêm chỉnh kiếm thuật cùng mang đến giá trị của Phật, Khổng và Lảo giáo, vì khắc sâu được những đặc điểm như khiêm tốn, kiên nhẩn, hợp tác, kỷ luật, tự kiểm, tinh thần minh mẩn, thân thể tráng kiện, và đặc biệt giúp đem lại niềm vui trong hành động và thành đạt mà lại không bon chen.[xxxiii] Các chuyện kể về những anh hùng trong quá khứ đều mang những giá trị ấy, thí dụ như chuyện kiếm sĩ Kami-idzumi Hidesuma, người đã cứu một đưá trẻ bị kẻ cướp bắt làm con tin và đe doạ giết chết. Hidetsuma giả trang thành một nhà sư lấy được lòng tin tên cướp, rồi đánh bại y bằng nhu thuật, ju jutsu, và giao y cho dân làng xét xử.[xxxiv] Không phải ai cũng tuân thủ các giá trị này vì Bushido có chứa chấp nhiều phần tử không liên quan đến Phật giáo, mà họ mang bổn phận báo thù[xxxv] và coi thường sinh mạng.

Từ thế kỷ XVIII, một hình thái mới của Thần đạo, Shinto, bắt đầu được phát triển như một tôn giaó chính thống tại Nhật nhằm phân biệt với những Phật và Khổng giáo ngoại nhập, giả tạo. Năm 1868, việc này được kết thúc bằng một cuộc lật đổ chế độ Đức Xuyên, Tokugawa, phục hồi hoàng gia, lập ra thời Minh trị. Ngay sau đó Nhật mở của cho ảnh hưởng Tây phương và hiện đại hoá nhanh chóng. Do tinh thần dân tộc do Thần đạo khởi xướng, về sau Nhật chiến đấu chống Hàn quốc, Liên xô và Trung Quốc, trong đệ nhị thế chiến chống Hoa kỳ và Anh. 

Sau khi bị phê bình và ngược đãi vào đầu thời kỳ Minh trị, các môn phái Phật giáo của Nhật đã ủng hộ chính quyền một cách tích cực và tác động tới các phong trào chống công giáo và cộng sản vào đầu thế kỷ XX.[xxxvi] Soyen Shaku, một viện chủ Nhật khi hồi tưởng lại lời thề của mình trong chiến tranh Nhật chống Liên Xô (1904-5) đã cố tìm hiểu và cũng chấp nhận bạo lực. Ông kết hợp lời giáo huấn Đại thừa, tính thực dụng thiền tông và chủ nghĩa dân tộc thành một tổng hợp các tư tưởng đầy thu hút và phức tạp.[xxxvii] Ông đã mô tả việc này khi chiến tranh giửa Nhật và Liên xô khi Nhật tham gia một cách vô vụ lợi nhằm chống loại quỷ dử chống lại văn minh, hoà bình và khai sáng. Ông hy vọng rằng khi lính Nhật hy sinh, họ sẽ được trang bị tinh thần cao quý của Đức Phật .[xxxviii] Chỉ có một vài người đã vượt qua khuôn khổ thể chế của giáo hội và chống đối chiến tranh.[xxxix] Cả môn phái Thiền Tông và Tinh Độ đã yểm trợ tiền bạc cho Nhật trong chiến tranh chống Trung Quốc.[xl] Một vài thiền sư đã hổ trợ chủ nghiã quân phiệt đang lớn mạnh trong những thập kỷ 20 và 30 và hướng dẫn thiền định nhằm chuẩn bị cho chiến đấu. Harada Sogaku (1870-1961) kể là người lính hoàn toàn nhất trí cao với công việc của mình, thi hành bất cứ công việc gì được giao phó, dù xông trận hay chém giết, tất cả là sự biểu hiện rỏ nét về tinh thần minh triết bồ đề tâm một cách cao độ: một sự nhất thể giửa thiền và chiến tranh,[xli] đây là một sư đảo lộn lạ kỳ về giá trị của Phật giaó. Vào năm 1938, một nhà lãnh đạo kế thừa của Tịnh Độ Chân Tông và là bộ trưởng bộ ngoại giao và trong chiến tranh Trung Nhật, dưới sư kiểm soát của văn phòng ban Tôn giáo các tông phái Phật giáo, đã chính thức tham gia trong các cuộc động viên tinh thần theo quy định vào năm 1937.[xlii] Trong suốt thế chiến thứ hai, hầu hết các tông phái Phật giáo đống ý hổ  trợ cho đất nước trong những nổ lực này. Chỉ có một ngoại lệ là sư Soka Gakkai, là từ chối tham gia vào mặt trận thống nhất này.   

Luật của võ sĩ đạo, bushido trở nên chiếm ưu thế do từ hình thức chủ nghĩa dân tộc của Thần đạo mà mọi ích kỷ cá nhân phải dẹp bỏ và trung thành vô điều kiện với hoàng gia. Lòng trung thành mù quáng này đã vượt qua những mong đợị trước đây. Theo võ sĩ đạo, sự xem thường cái chết theo thiền tông vẫn còn đó, điều này phài kể đến việc huấn luyện cho các phi công thần phong cảm tử vào cuối thế chiến thư hai khi người Nhật liều lĩnh. Cùng với ý nghĩ là thà chết hơn là chịu nhục khi đầu hàng, ý nghĩ này lại quan trọng trong việc ngược đải các tù nhân chiến tranh, cũng như tự sát tập thể của những binh sỉ Nhật bị bắt giử.[xliii]

Từ thế chiến thứ hai, Nhật đã có hiến pháp cấm Nhật có lực lượng phòng vệ chiến đấu ở hải ngoại. Thí dụ như trong thời kỳ chiến tranh vùng Vịnh, lực lượng phòng vệ của Nhật chỉ được phép đóng vai trợ hổ trợ phi quân sự, mặc dù các chính phủ phương Tây áp lực Nhật tích cực hơn.

Đổ Kim Thêm dịch

Bài 6: Những hoạt động của Phật giáo đóng góp cho hoà bình trong thế giới hiện đại 



[i] Demiéville 1957: 348

[ii] Demiéville 1957: 355-6

[iii] Demiéville 1957: 355

[iv] Demiéville 1957: 376

[v] Welch 1972, Buddhism Under Mao, Cambbridge, Mass; Harvard University Press, 297

[vi] Demiéville 1957: 357

[vii] King 1993,  Zen and the Way of the Sword: Arming the Samurai Psyche, Oxford, Oxford University Press, 39

[viii] Renondeau 1957 Histore de geurriers du Japon in Melange Vol. 1 Prsse Universitaire de Paris 159-346; Demiéville 1957: 369

[ix] Demiéville 1957: 369-70

[x] King 1993:41

[xi] Demiéville 1957: 370

[xii] Demiéville 1957: 371

[xiii] Zuzuki 1959 Zen and Japaanese Culture, New York, Bolligen Foundation 64-79

[xiv] Demiéville 1957: 373

[xv] Demiéville 1957: 377

[xvi] Demiéville 1957: 377

[xvii] Demiéville 1957: 377-8

[xviii] Faure 1991 The Rhetoric of Immediacy, Priceton: Priceton University Press, 231; King, 1993: 29-32

[xix] Suzuki 1959: 123

[xx] Demiéville 1957: 382

[xxi] King 1993: 33

[xxii] King 1993: 53-4

[xxiii] King 1993: 125

[xxiv] McFarlane 199 Mushin, Morals and Martial Art, Japanes Journal of Religion Studies 17 (4) 397-432 (43)

[xxv] Shỏhei 1987 Buddhist Martial Art in Eliade vol IX 228-9

[xxvi] McFarlane 1990: 407

[xxvii] Aitken 1984 The MInd of Clover: Essay in Zen Bud dhist Ethics, San Francisco, North Point Press, 5

[xxviii] McFarlane 1990: 411

[xxix] McFarlane 1994: 189

[xxx] McFarlane 1994: 403-4

[xxxi] Kammer 1978 Zen and Confucius in the Art of Swordmanship London, Routledge

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here