Tịnh độ của Bồ-tát thừa rất đa dạng, như trong Kinh nói: Khắp thập phương đều có Tịnh độ. Nhưng ở Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn và Trung Quốc, khi nói đến Tịnh độ, hầu hết đều nghĩ ngay đến Tịnh độ của Phật A Di Đà (Atami) ở phương Tây, chỉ có người còn biết đến Tịnh độ của Phật A Súc (Aksobhya Akkobbha: Bất Động) ở phía Đông, và Tịnh độ tại thế gian và trong tương lai của Phật Di Lặc (Maitreya-Metteyya).
Khung cảnh thế giới đã đổi khác, trình độ nhận thức của con người thời đại đã tăng tiến rõ rệt, các nền văn minh Đông và Tây đang ngày càng giao tiếp nhau, trí giả Tây phương đến với đạo Phật ngày càng nhiều, ý thức về mình và về việc làm của mình ngay trong kiếp sống này đang chuyển sang hướng tích cực, tư tưởng Tịnh độ Di-lặc đang được trí giả thời đại ở cả Đông lẫn Tây chú tâm nghiên cứu và đưa ra một hướng tu và hành của người Phật tử trong thời đại mới. Bài này xin ghi lại vắn tắt một vài đểm chính yếu của xu hướng này. Và trước khi trình bày vài điểm chính của pháp môn Tịnh độ Di-lặc, chúng ta cần lược qua vài vấn đề nền tảng trong sự chuyển hướng tư tưởng của thời đại.
I.Tổng quan về xu thế thời đại
Trên mọi bình diện, khung cảnh sống và sinh hoạt của con người thời đại chúng ta, so với vài thập niên trước, đã thay đổi và đang thay đổi với một tốc độ chóng mặt, có thể nói rằng thế giới đang thay đổi dạng, một cách toàn diện, để tiến tới hình thành một trật tự quốc tế mới, một khung cảnh sống mới, và hẳn nhiên một con người mới.
Tại sao là hẳn nhiên phải có mẫu người mới?-Vì rằng con người nói ở đây là con người mới hiện thực, hiện hữu trong không gian, trên trái đất và cùng với sự vật; sinh ra, lớn lên, được giáo dưỡng và hình hoạt trong một khung cảnh nhân sinh của một cấu trúc văn hóa xã hội cụ thể. Mà, như mọi người đều biết: xã hội nào, con người nấy;con người nào, xã hội nấy; hay nói theo kiểu nhà Phật : Y báo (khung cảnh sống), chúng sanh báo (con người) tương ưng. Các vị cha đẻ của các chủ thuyết chính trị, xã hội…như J.J Rouse, KarlMar,chẳng hạn, khi đưa ra chủ thuyết của mình cũng điều có đặt vấn đề phải có những con người mới. Và, cũng trong ý này, mà mẹ của Mạnh Tử cũng đã ba lần chuyển chổ ở, cũng chỉ là muốn cho con mình là Mạnh Tử khi còn nhỏ-tìm được một chổ ở có các điều kiện hoàn cảnh tốt mà học hành, hướng thiện và nên người.
Sao gọi rằng đây là sự thay đổi toàn diện? lịch sử loài người, trong mấy trăm năm qua, cho thấy; sinh hoạt của con người-trong cách sống, suy nghĩ, cảm nhận và quan hệ-cũng như khung cảnh của sinh hoạt đó, trên mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa-đều đã thay đổi từng bước, theo đà phát triển sự thay đổi trong mấy năm qua ấy, tuy đã diễn ra một cách toàn diện trên mọi mặt, nhưng chưa phải là triệt để.
Cuộc thay đổi hằng ngày nay đặt ra nhu cầu phải đặt lại vấn đề một cách triệt để; dẫn trí tuệ nhân loại vào việc đi tìm những giá trị nền tảng khác. Max Weber đã tuyên bố có hai khả thể có tương lai nhân loại: “Một là sẽ có một cuộc cách tân ở lãnh vực tinh thần, hoặc nhờ nơi xuất hiện của các nhà tiên tri hoàn toàn mới, hoặc có sự phục sinh mạnh mẽ của những tư tưởng hay ý hệ cũ; hai là bằng một loại phô trương nhố nhăng rỗng tếch”; tức là có thể nói con người không thể hoàn tất điều gì cả, hay ít ra là nói đến “tính bất khả của những chuyên gia không linh hồn, không có tâm nhìn và của những khoái lạc không trái tim”(1). Quan điểm này bị xem là “bi quan”, trên khả năng của con người; cũng bị xem là thần bí vì còn tưởng nghĩ với ý chờ đợi sự tương tri thần khải, để đem đến cho nhân loại những nền tảng giá trị “mới”. Nhưng qua đó, với tầm cỡ bác học của Max Weber chúng ta thấy sự bế tắc tư tưởng, có thể nói là toàn diện, của chung một bộ phận trí thức Tây phương.
Chính nỗi “bi quan” này đẩy con người thời đại vào trạng thái cô đơn đầy bất an, lo sợ dù đang sống trong các điều kiện vật chất đầy đủ với trình độ khoa học kỹ thuật cao. Điều này có thể hiểu được vì, thật vậy, vấn đề đặt ra trước mắt người thời đại một tầm vóc rất lớn, liên hệ đến cả các lãnh vực có tính nền tảng nhất: môi sinh, giá trị xã hội, và ở cả mức độ nền tảng về con người và về vũ trụ. Kỹ thuật có thể giúp giải quyết được khi nào chính xã hội muốn điều đó và đặt thành tiêu chuẩn giá trị: ý muốn này là nền tảng nhất. Và công việc then chốt và cấp bách trước mắt là xây dựng lại các kiến thức và khái niệm cơ bản về tính bản nhiên của con người và vũ trụ, tức là ở bình diện siêu hình học, để từ đó xây dựng lại cái khung văn hóa cơ bản, các giá trị đạo lý và thẩm mỹ, những quy tắc làm nền cho thái độ sống, với chính mình, với người khác và với thiên nhiên .
Một bộ phận trí thức Tây phương khác lạc quan hơn trên khả năng của con người. Một số lớn của bộ phận này đã tiếp cận với Phật giáo; đã chiêm nghiệm hình ảnh và bước-đi, cùng khả năng siêu vượt của một con người cụ thể Thái tử Tất-đạt-đa; đã suy nghĩ nhiều trên những lời dạy của vị Thái tử này sau khi chứng đạt Giác ngộ thành Phật; đã rút tỉa từ những lời dạy đó những điểm móc căn bản, ở mặt lý thuyết lẫn thực hành và diễn đạt lại để làm nền tảng cho một cấu trúc tư tương về con người và vũ trụ; rồi, từ đó, xây dựng một hệ thống đạo lý hoàn toàn nhân bản làm nền tảng cho một dạng xã hội thuận theo nhu cầu của con người sống trong khung cảnh điều kiện mới của thời đại.
Trong chiều hướng đó, từ vài thập niên này, nhiều hội thảo quốc tế được mở ra ở trình độ cao, một số điểm mốc tư tưởng có tính nền tảng đã được thiết lập; từ đó, các mặt nghiên cứu đã được trãi qua các bước đi khởi đầu và đang mở rộng – các nỗ lực đã và đang tạo nên một khích lệ lớn, cũng với một hướng nhìn tích cực. Hẳn nhiên con đường đi tới vẫn còn dài, và đến nay chưa ai có thể đoán chắc được, trong con người và khung cảnh trật tự mới của ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, không ai trong chúng ta biết chắc được chiều mai mình sẽ mua bánh mì ở tiệm nào nhưng nhu cầu bánh mì cho chiều mai thì rất rõ; cũng thế chúng ta có thể đoán chắc rằng, trong tiến trình của nhân loại hướng đến ngày mai, một số giá trị nền tảng sẽ tiếp tục tồn tại, có thể là dưới các dạng thể hiện mới, sau khi đã được bổ túc cho hoàn cảnh hay thích hợp hơn-qua đó, chúng ta có thể thấy được xu hướng của thời đại.
II.Các giá trị nền tảng sẽ tiếp tục tồn tại
Quá trình trở thành trong mấy trăm năm qua của lịch sử nhân loại đánh dấu một bước nhảy lớn của kiến thức khoa học và của tư tưởng tự do.
Như mọi người đã biết tư tưởng tự do và kiến thức khoa học kỷ thuật là mẹ đẻ của xã hội hiện đại. Các giá trị khác chỉ là phương tiện, là các mặt áp dụng hay các khía cạnh đặc thù của hai yếu tốt này; và chúng chắc chắn sẽ tiếp tục tồn tại, vì cần thiết; chẳng hạn như: quan niệm về công lý (hay bình đẳng), tinh thần trách nhiệm bản thân và lòng vị tha, cùng với các thị hiếu đặc thù có tính văn hóa truyền thống, đều là sự thể hiện của tự do, cũng là các phương tiện cho sự phân bố tự do và hạnh phúc, cho lối sống an lạc, cho sự hòa hợp xã hội.
Lý tưởng tự do đi đôi với ước vọng tìm cầu hạnh phúc-hai giá trị này thuộc lãnh vực đạo lý. Và, trên lãnh vực tri thức, kiến thức khoa học đi đôi với thuyết tất định (nhân nào thì quả nấy). Và tư tưởng Tây phương từ lâu cho rằng bốn giá trị này không thể tương hợp nhau, bởi nhiều lý do! Tức là có sự mâu thuẫn trầm trọng giữa tự do với hạnh phúc, một bên, và với thuyết tất định, bên khác:
1.Có lẽ ước vọng được sống hạnh phúc là mục tiêu cuối cùng và duy nhất của con người muôn thưở: Mục tiêu tự do, hoặc được xem là tương đương và gắn liền với mục tiêu hạnh phúc hoặc chỉ được xem là phương diện của hạnh phúc. Nhưng tư tưởng Tây phương từ lâu đã đánh giá rằng tự do đối nghịch với hạnh phúc, nhất là trong khung cảnh hiện nay.
2. Ở bình diện kiến thức, sự phát triển tuyệt vời của khoa học và kỷ thuật, đặt nền trên nguyên lý nhân quả hay thuyết tất định (nhân nào thì quả nấy), cũng không đi cùng chiều với sự thể hiện của tự do-tự do hình như trở thành vô nghĩa trước nguyên lý nhân quả phổ quát. Thế nhưng, sự quan sát trên chính bản thân cho thấy khả thể của tự do hiện hữu một cách hiển nhiên.
Các mâu thuẫn này là nguyên nhân của những bất an thời đại mà các tiết gia thường ghép với “trạng thái tự do”, với “khả tính phạm phải sai lầm” và với các tội phạm xã hội đủ mọi hình thức” chuyện thần thoại “Uysse tự trói mình vào trụ”. Freud nói tới “nhục dục tự do-libido libre”, các nhà kinh tế tín toán cái giá phải trả của những quyết định; tinh thần trách nhiệm nhường chổ cho những dục vọng; nhiều bộ phận lớn của các dân tộc thuộc các quốc gia hiện đại, sau khi đã nếm hương vị tự do, lại từ bỏ tự do để giao phận mạng mình vào tay các lãnh tụ giỏi nịnh dân. Nói rộng ra, “tự do”, là nguyên nhân của mọi thứ bất an, bất mãn. Khủng hoảng tinh thần, đạo đức giả, lừa dối, sai lầm, có liên hệ trực tiếp với các thảm trạng lớn của lịch sử cận đại (2). Một thử thách lớn được đặt ra, trực tiếp trên vấn đề đạo lý của trách nhiệm: trách nhiệm chỉ có thể xác định được trên nền tảng của tự do, nhưng tự do lại đang là vấn nạn lớn.
Con đường Phật giáo đưa đến lý tưởng “giải thoát” hay “tự tại”, một dạng tự do cao cả, cũng là con đường của trí tuệ giác ngộ. Ở đây cả giải thoát và trí tuệ không hề mâu thuẫn nhau. Nhiều trí giả Tây phương đã nhận thấy rằng: Phật giáo không những hoàn toàn phù hợp với hai lý tưởng tự do và trí thức khoa học thời đại, mà còn có thể giúp cho tư tưởng thời đại thoát khỏi cái mâu thuẫn nêu trên. Giải pháp mà họ tìm thấy nơi Phật giáo cho các mâu thuẫn ấy đòi hỏi, trước hết, sự xét lại quan niệm hẹp hòi về tự do của tư tưởng phương Tây, cùng với cách nhận định không thõa đáng về các điều kiện cần thiết cho sự thể hiện tự do; từ đó, đi đến một ý nghĩa mà khái niệm tự do có thể có và phải có.Và họ thấy rằng: các sai lầm này, nguyên nhân gây các thảm trạng con người trong lịch sử và trong xã hội hiện đại, xuất phát từ chổ đã đặt tự do vào hàng đầu của các giá trị. Thật vậy, lịch sử của văn minh Tây phương thể hiện như một con đường hành hương trãi bằng cuộc giải phóng tuần tự trong nhiều lãnh vực nhưng các cuộc giải phóng này không ngừng bị phản bội, bằng cách này hay bằng cách khác, và nhanh chống rơi vào các hình thái nô lệ hoặc mới hoặc tương tự.
Lại nữa, lý Duyên khởi với công thức “cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh, cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt” (3), cùng với tinh thần bất bạo động, lòng từ bi, hay “tình yêu vô ngã”, và mười điều thiện (thập thiện), của nhà Phật, cũng được các trí giả hiện nay xem như là có khả năng đem đến cho người thời đại một tầm nhìn bao quát cùng với các cơ sở tư tưởng và đạo lý đủ để xây dựng lại quan hệ môi sinh và xã hội, tạo nên một cõi sống nhân sinh đầy an lạc. Khắp nơi việc nghiên cứu đã và đang được tiến hành với một quy mô ngày càng mở rộng. Còn rất nhiều điều cần thảo bàn, nhưng rõ ràng là, với sự tham gia của bản tính dấn thân tích cực sẵn có nơi người Tây phương, việc nghiên cứu cũng như việc thực hiện các kết quả nghiên cứu này, đều hướng đến việc xây dựng một cõi an lành tại thế gian. Trong khung cảnh đó, tư tưởng Tịnh độ Di Lặc đang là đề tài chính trong tâm tư của giới nghiên cứu, Phật tử và không Phật tử.
III. Lý tưởng Tịnh độ Phật giáo (4)
Về ngữ nghĩa: chữ Độ, trong Tịnh độ Sanskrit: Ksetra; Pali: Khetta Hán âm: Sái hoặc sái độ-có nghĩa là Thế giới hoặc Cõi. Tịnh là không nhiểm bẩn; và Tịnh độ là cõi thanh tịnh. Có hai cách hiểu: tiêu cực (phủ định) và tích cực (xác định): Trong Phật pháp, nói Tịnh tức là ngược với tạp nhiễm; cũng được hiểu là vô cấu, vô lậu-nặng về tiêu cực, phủ định. Mà không nhiểm bẩn cũng là thanh tịnh. Tựa như không có phiền não, tức là có trí tuệ; không có sân hận, tức là có từ bi; không có sai lầm tạp nhiễm, tức là có công đức thanh tịnh. Như vậy, nội dung của Tịnh cũng bao hàm ý nghĩa tích cực, xác định.
Người Tây phương thường nói đến Chân, Thiện, Mỹ. Trong Phật giáo chúng ta, Chân là Thực tướng, Chân như, Thắng nghĩa-được coi trọng. Thiện là cái đạo đức nằm trong các hành vi hay là các hạnh tu mọi công đức, phù hợp với Thực tướng hay Chân như đó. Mỹ là cái đẹp, của hình sắc, âm thanh…, mà người học Phật cần phải luôn luôn cảnh giác vì chúng thường là nhân duyên cho sự khởi sanh ngũ dục; ngũ dục là nhiễm bẩn, là không thanh tịnh, và chúng lại sanh ra mọi thứ không thanh tịnh khác, làm cho cái đẹp không còn là cái đẹp nữa, nên Phật giáo nhấn mạnh đến chữ Tịnh-có bao hàm cả hai ý nghĩa: đẹp và thanh khiết. Cụ thể hơn ở mức độ thế gian: theo Phật pháp, nhận thức rời khỏi sai lầm là Chân; hành vi không vướng vào tội ác là Thiện và Tịnh là sự cảm nhận không bị ô nhiểm bởi ái dục. Ở mức độ siêu thế gian, nói Tịnh là nói sự đoạn trừ mọi nghip quả, là dứt bỏ cái sức mạnh trói buộc là cho ta phải lẫn quẩn mãi trong các đường sanh tử luân hồi. Tóm lại Tịnh độ là cõi thanh tịnh, cõi trang nghiêm tinh diệu.
Có thể nói rằng tinh túy của Phật pháp chỉ bao gồm trong một chữ Tịnh. Nhưng Tịnh cần phải được phân định và hành động trên cả hai bình diện: thanh tịnh chúng sanh và thanh tịnh thế giới (cõi). Như Phật giáo Nguyên thủy thường nói: “Do tâm thanh tịnh nên chúng sanh thanh tịnh”, và Phật giáo Phát triển: “Tâm tịnh thì quốc độ (thế giới) tịnh”. Cả hai đều thấy chỗ trọng yếu là tu hành dứt trừ phiền não để làm sáng tỏ tính thanh tịnh vô lậu của bản tâm, nhưng ở mặt thực hành thì: một bên đặt nặng vấn đề tu tập bản thân ; bên kia lại chủ trương mỗi người hãy vừa thanh tịnh chính mình, vừa thanh tịnh cõi (cảnh) sống.
Chúng sinh nà, cõi sống ấy. Loài chim có cõi sống của loài chim; loài ong có cõi sống của loài ong. Người thiện, người ác, người tham, người sân, người si…mỗi mỗi đều có cõi sống tương ứng. Đặc tính của chúng sinh là chánh báo, đặc tính của cõi sống là y báo. Chánh báo nào y báo nấy. Đổi lại, thường thì một y báo thiện ảnh hưởng tạo nên một chánh báo thiện; và một cõi sống bất thiện kềm giữ chúng sanh trong một lối sống bất thiện. Như có những trường hợp: có một số người sống trong khung cảnh này thì có thể phát huy được, nhưng trong khung cảnh khác thì không. Chánh báo và y báo luôn tương ưng và tương tác qua lại lẫn nhau, xây dựng trên quan điểm này, chủ trương của học pháp Bồ-tát thừa là: vừa hướng đến việc thanh tịnh cõi sống (tu phước đức), vừa hướng đến việc thanh tịnh thân tâm (tu trí tuệ); khác với học pháp thanh văn thừa: chủ yếu nhắm đến việc dứt trừ phiền não, thanh tịnh hóa bản tâm (tu giải thoát).
Nói cách khác, nếu tách rời phước đức để chỉ tu tuệ, hoặc rời trí tuệ để chỉ tu phước, đều không là căn khí của Bồ-tát thừa: có A-la-hán chỉ tu tuệ giải thoát, nhưng không bao giờ có Bồ-tát chỉ tu phước, hoặc chỉ tu tuệ. Mọi hành giả Bồ-tát thừa đều tu cả hai mặt, và mọi vị Bồ-tát, một khi đã thành tựu vô sinh pháp nhẫn cũng, cùng lúc, thành tựu luôn hai nhiệm vụ phải làm là: “thành tựu chúng sinh” và “trang nghiêm tịnh độ”; tức là: vừa khiến những chúng sinh, ngụ nơi một cõi nào đó, được có đủ thiện căn để thành tựu thiện pháp, hay thành tựu giải thoát; vừa khiến cho cõi sống (hay thế gian), nơi mình và những chúng sinh ấy trú ngụ, được chuyển hóa thành cõi thanh tịnh-chỉ khi nào được cả hai mặt: pháp thân viên mãn (ở cõi sống), thì vị Bồ-tát ấy mới thực sự thành Phật.
Ngắn gọn, theo Phật giáo Phát triển, chư Phật, quá khứ, hiện tại và vị lai, khi còn là Bồ-tát, cùng lúc với việc tự tu (tự lợi) tiến đến Phật quả, đều làm mọi việc trang nghiêm tịnh độ để nhiếp hóa những chúng sinh có duyên với mình (lợi tha), để cho họ có các điều kiện hoàn cảnh thuận lợi mà tu tập. trang nghiêm tịnh độ một bộ phận quan trọng trong phần tu phước, hay tu công đức của chư Phật, Bồ-tát, sẽ hướng tâm về đó và cầu được vãng sanh ở đó. Qua đó mới thấy rằng học pháp Bồ-tát thừa, hay Phật giáo phát triển, còn gọi là Phật giáo đại thừa, chẳng những không thể tách rời tư tưởng Tịnh độ, mà còn đặt biệt phát huy tư tưởng trang nghiêm tịnh độ.
IV. Trang nghiêm tịnh độ
Tịnh độ là hoàn cảnh (nơi) thanh tịnh và lý tưởng, nhiều tiện lợi, ít chướng ngại cho sự tu hành tiến đạt đạo quả. Nên việc chúng sinh mông cầu được sanh về đó cũng là điều dễ hiểu. Những người tu tịnh độ, tại các nước Đông Á, như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc nếu chỉ biết phát nguyện cầu vãng sanh tịnh độ, mà không thể lưu ý đến việc trang nghiêm tịnh độ, thì quả là một điều đáng tiếc!
Từ đâu mà có Tịnh độ? Thường thì người ta cho rằng có Phật A-di-đàông , họ không biết rằng Phật A-di-đà không phải do cầu vãng sanh mà có Tịnh độ. Một số kinh của Phật giáo phát triển có nói đến trang nghiêm tịnh độ; tức là, trên bước đường tu hành tiến đến quả vị Phật, Bồ-tát ấy, hoặc là đã do chư Phật thực hiện, hoặc là do chính vị Bồ-tát ấy phải nguyện tạo ra, trong mục đích thiết lập môi trường thuận lợi cho việc tiếp độ và giáo hóa chúng sinh có duyên với mình. Đến khi thành Phật, thì quốc độ ấy cũng sẽ thành tựu viên mãn. Vậy mà nay ít ai nghe nói đến trang nghiêm tịnh độ. Tức là đã có sự sai lệch.
Kinh Đại Bát Niết Bàn nói rằng:Tổng các loại thế giới, các loại thanh tịnh lạ thì thành thế giới viên mãn nhất. Bồ-tát phát nguyện tu hành để thực hiện nó. Tịnh độ Tây phương của Phật A-di-đà là một ví dụ cụ thể. Kinh Vô Lượng Thọ Phật viết: Phật A-di-đà xưa kia khi là Tỳ kheo Pháp Tạng, có Phật Tự Đại Vương đã nói cho Ngài nghe 210 triệu tướng tịnh độ. Sau khi nghe các loại các kiểu tịnh độ như vậy, Ngài Pháp Tạng bèn phát nguyện phải thực hiện một Tịnh độ thanh tịnh nhất. Tất cả các hành giả tu theo đạo Bồ-tát đều là: khi phát tâm học đạo, đương nhiên Bồ-tát cũng phải thực hiện tịnh độ như vậy, không phải để cho bản thân mình thụ dụng (có chổ an vui), mà là để tiếp độ và giáo hóa chúng sinh “ Nhiếp thụ đại nguyện độ vô biên tịnh” cũng là “phát nguyện trang nghiêm tịnh độ” đây là nội dung nền tảng của học pháp Bồ-tát bởi vì: có tịnh độ rồi, thì mới có thể nương vào tịnh độ để nhiếp hóa và tiếp dẫn chúng sinh; như thế, như thế là để cùng với chúng sinh có duyên với mình thực hiện tịnh độ.
Trang nghiêm tịnh độ là căn bản chung của hạnh Bồ-tát. Kinh Duy Ma Cật phẩm Phật Quốc, có giải thích ý nghĩa “Bồ-tát trang nghiêm tịnh độ”. Kinh viết loại chúng sanh là tịnh độ Bồ-tát, có nghĩa là: Bồ-tát tu tịnh độ là do loại chúng sanh. Tịnh độ Bồ-tát không rời chúng sanh, lấy chúng sanh làm nền, cùng ở với chúng sanh, làm lợi lạc cho chúng sanh; có thể, mới có thể thực hiện được tịnh độ. Như vậy, lý tưởng tịnh độ, rõ ràng không phải là trốn tránh hiện thực. Trang nghiêm tịnh độ không phải là vì riêng mình, mà là vì đại chúng; nên phải dựa theo căn tính của mỗi loại chúng sanh mà thích ứng để sáng tạo ra một tịnh độ ưu việt nhất, nơi mà chúng sanh ấy có thể rút được lợi ích nhiều nhất. Vì vậy, khi bàn đến loại chúng sanh, Bồ-tát thường quan sát đến trả lời các câu hỏi: 1/ Làm thế nào để chúng sanh ấy có thể điều phục được phền não, sinh thiện, diệt ác, khởi tâm tu tập công đức? 2/ Với điều kiện nào thì chúng sanh ấy sẽ khởi thiện căn Bồ-tát thừa? 3/ Phải với loại tịnh độ thế nào mới có thể khiến chúng sanh ấy thể ngộ được tri kiến Phật, nhập trí tuệ Như Lai? Đó là thuyết “ứng cơ hiện lộ” (tùy theo cơ duyên mà hiện tịnh độ; và Tịnh độ Di-lặc là xu hướng ngày càng rõ nét, thể theo tâm tánh của mỗi người thời đại, sẽ nói ở sau); có nghĩa là: trên bước đường tu hành và dựa vào sự tu hành của mình, Bồ-tát sẽ tùy theo loại chúng sanh mà thành tựu quả đức tiếp dẫn chúng sanh và trang nghiêm tịnh độ.
Ngắn gọn: phát tâm bồ đề, tu từ bi hỷ xã, lục độ, tứ nhiếp…thực hiện mọi hạnh công đức của Bồ-tát, đều nhằm thành tựu việc gieo nhân tịnh độ. Và trong Kinh Duy Ma Cật cũng nói rằng: Trực tâm là tịnh độ Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, không tuyên truyền lôi kéo chúng sanh đến sống ở tịnh độ của mình. Thâm tâm là tịnh độ Bồ-tát…Trực tâm là lòng ngay thẳng, Bồ-tát phải lấy đó làm pháp môn, lấy đó để hóa độ chúng sanh; tức là hãy tiếp dẫn những cúng sanh không có tâm hiễm độc đã kết pháp duyên với Bồ-tát, cũng như những chúng sanh tu lục độ vạn hạnh, được Bồ-tát vời đến để góp tay vào việc trang nghiêm tịnh độ, đến khi Bồ-tát thành Phật, thì họ cũng sẽ sống nơi quốc độ ấy.
Như vậy, thực hiện tịnh độ là công trình chung của người tiếp dẫn và người được tiếp dẫn: Bồ-tát là người dìu dắt, gợi mở, cùng với những người đồng hành đồng nguyện kết thành bạn lữ, hòa hợp thành một khối, cùng tu phước huệ và cùng nhau xây dựng nên tịnh độ (5); từ đó, cùng với những chúng sanh khác triển chuyển thúc đẩy nhau, mở ra một con đường với nhiều phương tiện, hay một khung cảnh thuận lợi cho việc tiến đạt đạo quả. Theo thuyết Phật, Tịnh độ đó là y báo của Phật hay cõi Phật tự thụ dụng. Theo thuyết Bồ-tát, đó là tịnh độ mà Bồt-tát đã nhờ nơi sức tu hành của mình cảm hóa được những chúng sanh có duyên với mình để cùng nhau tạo dựng nên. Đấy là ý nghĩa chân thực của Bồ-tát thừa. Không biết trang nghiêm tịnh độ, không biết tịnh độ từ đâu có, mà chỉ biết cầu sanh tịnh độ, thì đó chỉ là việc coi tịnh độ như là thiên đàng hay thiên quốc của các tôn giáo thần khải.
Kinh Duy Ma Cật (quyển hạ) viết: Bồ-tát thành tựu tám pháp, không làm điều thương tổn ở thế giới này (thì chắc chắn, dù không cầu, vẫn) sẽ sanh về tịnh độ. Tám pháp ấy là: 1/ Làm lợi lạc cho chúng sanh mà không mông cầu báo ơn, hoàn toàn xuất phát từ lợi ích của chúng sanh không tính toán cho mình. 2/ Thay tất cả chúng sanh nhận lấy mọi khổ não; mọi công đức thực hiện được đem bố thí hết, để cầu phúc lạc cho hết thải chúng sanh. 3/ Dùng tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh, khiến chúng sanh được ngôi bình đẳng. 4/ Đối với hành giả tu theo pháp môn Bồ-tát thừa, thì coi như Phật khởi tâm tôn kính. 5/ Đối với kinh thâm áo chưa từng nghe, nghe xong không ghi ngờ, không sanh tâm bài báng chê bai. 6/ Cũng không cho đường mình tu là pháp môn “đại thừa”, là thâm thúy vi diệu hơn pháp môn “tiểu thừa” (hay thanh văn thừa), tức là thực sự phải thông hiểu Phật pháp, biết lãnh hội sự tinh túy của những pháp môn. 7/ Không đố kỵ đối với người khác được quý dùng. Khi mình được lợi dưỡng, không vì thế mà tỏ ra kiêu ngạo phóng dật. 8/ Luôn luôn tu tĩnh sai lầm của bản thân, không nói điều thiếu sót của người khác, một lòng cầu mọi công đức. Tám pháp đó là đạo chính thường, đối với mình (tự lợi) đối với người (lợi tha). Nếu theo đó mà tu thì dù không cầu sanh tịnh độ cũng chắc chắn vãng sanh tịnh độ.
Kinh trừ các chướng Bồ-tát Sở Vấn viết: Bồ-tát nếu tu được mười pháp, thì sẽ sanh Quốc độ tịnh độ của Phật. Mười pháp ấy là: Giới thành tựu, hành tâm bình đẳng, thành tựu thiện căn quảng đại, xa rời danh vị cùng lợi dưỡng thế gian, tịnh tín đầy đủ, tinh tấn, thiền định, tu tập nghe nhiều, lợi căn, hành động từ tâm. Kinh Thắng Thiện Vương, Bát Nhã, Kinh Bảo Vân, Kinh Bảo Vũ, đều có nói mười pháp đó; và đều quy kết rằng: thành tựu thiện căn quảng đại đúng là bí quyết trọng yếu để vãng sanh tịnh độ. Hay nói chung: các pháp nêu trên là món tư lương cần có để vãng sanh tịnh độ; mà pháp môn tịnh độ là thường đạo của Bồ-tát; hành trì các pháp trên, Bồ-tát không cầu sanh tịnh độ mà tự nhiên được sanh về tịnh độ.
V. Các loại tịnh độ
Như đã nêu trên, Tịnh độ là cõi thanh tịnh, cõi trang nghiêm tịnh diệu; tư tưởng Tịnh độ quán triệt toàn bộ Phật pháp, là chỉ hướng của mọi tông phái, và Bồ-tát thừa chỉ đặc biệt phát huy nó mà thôi. Có thể chia làm ba loại: cõi chung cho cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát (tam thừa) và cõi riêng của Bồ-tát thừa.
1. Cõi chung cho ngũ thừa-Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Người, Trời: Đây là quan niệm không phải riêng của Phật pháp. Mọi người trong thế gian nói chung đều có thể có tư tưởng Tịnh độ. Người Ấn Độ (cả Sanskrit lẫ Pali) đều thừa nhận có một Uttarakuru (Hán âm là Uất-đầu-la-câu-lô, vừa có nghĩa là nơi “phước lạc vô thường”). Ở Trung Quốc, đạo Nho cũng truyền bá một cảnh giới tương tự.
2. Cõi chung cho tam thừa- Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát: là cõi tịnh độ Đấu suất (6), của riêng Phật giáo, mà Kinh điển của Phật giáo Thanh văn cũng có nhắc tới. Theo Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu (Trung bộ123-tạng Pali, tương ưng với Kinh Vị Tằng Hữu Pháp bên Trung A-hàm 32- tạng Sanskrit):trước khi giáng sanh xuống cõi nhân gian nhập vào mẫu thai để trở thành Thái tử Tất-đạt-đa (Siddhatha). Tối hậu thân Bồ-tát của đức Thích Ca đã trú ngụ cùng với Thiên chúng ở cõi trời Đâu-suất. Ở đây Ngài đã thường xuyên thuyết pháp cho Thiên chúng và các bậc Thánh nghe. Và Hoàng hậu Maya, mẹ sanh của Thái tử Tất-đạt-đa, sau khi mạng chung cũng sanh về cõi này. Trong Thiên Cung sự (Vimana Vatthu, tạng Pali), Thiên cung được mô tả như một cõi cực kỳ trang nghiêm, có tối hậu thân Bồ-tát thuyết pháp, là nơi tốt nhất trong các cõi trời khác. Kinh Di-lặc Thượng Sanh có nói rõ về tính trang nghiêm đặc biệt của Tịnh độ này, để khuyến khích mọi người tu hành và nguyện sanh về đó. Và nay Tối hậu thân Bồ-tát của Phật Di-lặc, đang trú ngụ và thuyết pháp ở Tịnh độ Đâu-suất (nên cũng gọi là tịnh độ Di-lặc), cũng sẽ giáng sanh, để thực hiện tịnh độ nhân gian-đây là mục tiêu ngưỡng vọng của mọi Phật tử; và là Ngài sẽ giáng sinh thế nào? Kinh Di-lặc Hạ Sinh có giải thích tỉ mỉ.
Ngoài Tịnh độ Di-lặc. Kinh Chính Pháp Niệm Xứ, liên quan đến Nhất thiết hữu bộ (Sarvâstivâda), còn nói đến cõi trời Dạ Ma (Yama) có Bồ tát Thiện Thời Nga Vương thường xuyên thuyết phát cho Thiên chúng. Nơi Thiên cung thanh tịnh lại có Bồ-tát thuyết pháp, mà về mặt tư tưởng cũng giống như Bồ-tát Di-lặc thuyết pháp ở cõi trời Đâu-suất. Nhiếp Đại Thừa Luận (Mahâyana-samparigraha-sâstra, của Mã Minh-Asvaghosa, Trí Quang dịch) có dẫn một đoạn truyền thuyết cho là của Đại chúng bộ (Mahâsâm ghika), nói rằng: Như Lai Thanh Nhã, ở cõi trời Nhị thiền sắc giới- Quang Âm thiên (Âbahassara) đã thuyết pháp để giáo hóa cho các Bồ-tát và vô số đại chúng Thanh văn, trong vô lượng trăm ngàn đại kiếp. Giáo điển pháp tạng bộ (Dharmaguptaka) cũng nói rằng: Ở phía đông bắc của cõi này, có Nan Thắng Như Lai thuyết pháp. Trong Tăng Nhất A Hàm, có nói ở phía đông cõi này có Kỳ Quang Như Lai thuyết pháp; Mục-kiền-liên, thần bằng thông của mình, đã đến chổ ấy- tích này cũng thấy trong giáo điển của Phật giáo phát triển. Điều này chứng tỏ rằng Phật giáo Thanh văn có tư tưởng về Thiên cung và các cõi Phật ở nơi khác; tức là, theo họ, bên cạnh cõi nhân dan uế nhiễm, còn có các cảnh giới thanh tịnh, ở đó có Phật và Bồ-tát thường xuyên thuyêt pháp.
3. Cõi riêng của Bồ-tát thừa-chỉ thấy trong giáo điển Bồ-tát thừa: Tịnh độ riêng của Bồ-tát thừa thì nhiều vô số. Ở đây chúng ta có thể phương tiện trình bày thành bốn loại, thể theo mức độ sâu cạn về tu hành (kinh văn không phân chia rành rọt như vậy):
a. Cõi chung cho cả Thánh lẫn phàm: cũng là chung cho cả ngũ thừa.
b. Cõi chung cho cả Thanh văn và Bồ-tát; cũng là chung cho cả tam thừa. Ở đây có cả Thanh văn, Bích chi Phật, Đại Bồ-tát do ý sanh, không có phàm phu. Tông Thiên Thai gọi đó là cõi “Phương tiện hữu dư”. Kinh Pháp Hoa cũng nói: hàng Thanh văn đạt được qủa Bất lai, nhập về một quốc độ khác và thành Phật luôn tại đó: quốc độ khác này chính là cõi “ý sanh thân”; và theo Kinh Lăng Già, thì đó là cõi Tịnh độ của “dữ hữu tâm địa Bồ-tát”-các Bồ-tát có đủ công hạnh, đạt đến tam muội nên có thể đạt đến dụng ý sanh thân.
c. Cõi của chư Phật và chư đại Bồ-tát thừa không có Thanh văn, Duyên Giác. Tông Thiên Thai gọi đây là trang nghiêm thật báo; Kinh Mật Nghiêm gọi là Tịnh độ Mật Nghiêm-mật vì không thể nghĩ bàn; và trang nghiêm, vì là cõi của chư Phật và chư đại Bồ-tát.
d. Cõi lui tới của chư Phật đã chứng qủa. Trong Kinh Nhân Vương có nói: Tam Hiền Thập Thánh cư qủa báo, duy Phật nhất nhân đăng Tịnh độ. Còn được gọi là cõi pháp tịnh; Tông Thiên Thai gọi đó là Tịnh độ Thường Tịch Quang.
Và dưới đây chúng ta chỉ lược qua ý nghĩa của Tịnh độ Di-lặc.
VI. Tịnh độ Di-lặc
Như trên đã nói trước khi giáng sanh xuống cõi nhân gian nhập vào mẫu thai để trở thành Thái tử Tất-đạt-đa, tối hậu thân Bồ-tát của Đức Thích-ca đã trú ngụ và thường xuyên thuyết pháp cho Thiên chúng cùng các bậc Thánh ở cõi trời Đâu-suất; và Hoàng hậu Maya, mẹ sanh của Thái tử Tất-đạt-đa sau khi mạng chung cũng sanh về cõi này. Đây là cõi Tịnh độ chung cho tam thừa Phật giáo, mà một số Kinh Nguyên thủy cũng như Phát triển có nói đến, và mô tả như là cõi trời cực kỳ trang nghiêm thanh tịnh. Tối hậu thân Bồ-tát của ngài Di-lặc, cũng đang trú ngụ và thuyết pháp ở tịnh độ Đâu-suất này, và cũng sẽ giáng sanh và thực hiện Tịnh dộ nhân gian.
Nói đến Phật A-di-đà, Phật Vô Luợng, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, là nói đến hình ảnh mặt trời lặn mà không mất, chỉ khuất bóng ở phương này để rồi tỏa chiếu ở phương kia, là nói đến tính vĩnh hằng vượt thời gian, hay tinh thần tại từ kiếp này đến kiếp sau, từ cõi này đến cõi khác, của Minh tuệ vô lượng, của Phật quả cứu cách. Nghĩ đến Phật Di-lặc (7), Phật của lòng từ, chúng ta nghĩ đến tâm cảnh của các bậc Thánh giả, được biểu tượng qua hình ảnh bầu trời đêm trong trẻo thanh tịnh, nơi ấy có mặt trăng tròn đầy, vì cho lòng từ ái, tỏa ánh sáng thâm trầm mát mẻ để xoa dịu chúng sinh phải đối diện khi đang đắm chìm trong màn tối tăm (vô minh) dày đặc của tâm cảnh con người hiện sống ở cõi đời ô trọc này.
Vô minh là cái gốc của mọi cái biết sai lạc (tà kiến), dẫn đến mọi thứ chấp thủ, ái dục, tham dắm, sân hận…, rồi từ đó sanh ra cho chính mình, cho đồng loại và cho muôn loài thực và động vật khác; cũng là đưa đến tình trạng con người, tha hóa trong những tư tưởng và hành động nguy hại xuất phát từ tâm trạng bất an đầy sân hận, làm cho môi trường sống của muôn loài bị hủy hoại và cảnh sống thế gian trở thành một trường tranh đoạt đầy vị kỷ. Bất an, sợ hải, sân hận, vị kỷ chỉ là những biểu hiện khác nhau của cùng một căn bệnh tha hóa của con người; chữa trị căn bệnh này, thiển nghĩ, chỉ có thể phải bằng lòng Từ-mỗi người tu lòng Từ, phát triển lòng Từ, thể hiện lòng Từ và hoằng dương lòng Từ.
Nhiều học giả thượng trí thuộc nhiều lãnh vực khác nhau của thời đại đã biết rằng: 1/ Con người thời đại là con người đã phát triển cao khía cạnh lý trí, mà năng lực của lý trí là phân tích, đưa đến cái nhìn chia chẻ chuyên biệt, mầm mống của phân tranh; 2/ Con người thời đại, muốn được cân đối, phải phát triển tình là tiếng nói của con tim, thuộc thế giới tình cảm, có khả năng kết hợp; 3/ Nhưng vì còn vấp ngã, nên tình yêu của người thế gian là tình yêu vị kỷ, tình yêu chiếm hữu, mầm mống khác của mọi tranh chấp; 4/ Từ đó đã nói lên tầm quan trọng của việc phải sống dậy, xây dựng lại và phát triển “tình yêu vô ngã” (vô vị kỷ), cách nói khác của lòng Từ hay lòng Từ bi của nhà Phật, thuộc lãnh vực tâm linh, siêu vượt mọi ý tưởng chấp ngã, để làm nền tảng đạo lý cho việc phục hồi ý thức người, phục hồi cảnh sống người, chuyển hướng xã hội đang ngày càng lún nhanh vào con đường băng hoại.
Theo Phật pháp, cõi thế gian chúng ta đang sống thuộc cõi Dục, là kết tinh của Dục; và mỗi chúng ta sanh ra ở cõi thế này vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của căn bệnh vị kỷ sân hận sợ hãi; muốn dứt trừ hay muốn chuyển hóa chúng Kinh Phật, nguyên thủy cũng như phát triển, đều nói rằng không có gì hiệu quả hơn là tu tập và phát triển lòng Từ ái, cũng là “tình yêu vô ngã”. Toàn bộ giáo thuyết Bồ-tát thừa cũng đặt nền trên việc gọi là phát tâm bồ đề; nguyện thành Phật để cứu độ chúng sinh, một đại nguyện siêu ngã, vô vị kỷ. Và, không phải vô cớ mà Kinh Phật dạy rằng Phật Di-lặc, Phật của lòng Từ sẽ giáng sanh để tiếp nối công trình hoằng pháp độ sanh của Phật Thích-ca chuyển hóa cõi sống thế gian này thành Tịnh độ-một Tịnh độ được xây dựng trên nền tảng của lòng Từ.
Trên mặt sự có thể tóm tắt rằng; 1/ Người tu theo Tịnh-độ Di-đà, vì chỉ coi trọng phần phát triển lòng tin (tín) trên đức hạnh viên mãn của Phật, dễ dẫn người tu đến chổ thụ động, chỉ biết niệm danh hiệu Phật (hành) để cầu vãng sanh (nguyện), mà quên đi phần tu tuệ và phần trang nghiêm tịnh độ; 2/ Tịnh độ Tây phương lấy hình ảnh mặt trời để biểu thị cho tính vĩnh hằng (lặn mà không mất, để rồi sẽ mộc lại ở phương Đông) cho sự viên mãn phúc lạc của vô lượng quang, vô lượng thọ, nhưng do bị biến chất của pháp môn Tịnh độ A-di-đà trở thành pháp môn học chết; vì là Tịnh độ ở phương khác, dễ bị hiểu lầm là trốn tránh hiện thực. Trong khi Tịnh độ Di-lặc là Tịnh độ ở chính cõi đời ô trọc này.
Nhưng ở mặt lý, Tịnh độ Di-đà và Tịnh độ Di-lặc có quan hệ mật thiết lẫn nhau; tịnh độ A-da-đà, vì là tiêu biểu cho Phật quả, cho thanh tịnh cứu cánh, là điểm đến của đạo Phật, là tư tưởng tối hậu của mọi thực hành chánh pháp và Tịnh độ Di-lặc chính là hành trình thể hiện lý tưởng là phương cách thực hành Chánh pháp của Bồ-tát đạo. Và, Kinh Chánh Pháp Hoa nói: Khi chưa được thọ được thấy ngàn Phật (của Hiền kiếp), không đọa vào đường ác. Do đó, thọ chúng sanh về cõi trời Đâu-suất.
Thấy ngàn Phật của hiền kiếp cũng là thấy Phật A-di-đà, vì Phật A-di-đà là một đặc thù hóa của chư Phật mười phương của Hiền kiếp.Và sanh về cõi trời Đâu-suât là để được tu học bên cạnh vô số Thiện tri thức và Thánh chúng ở đó, dưới sự trụ trì của Bổ Xứ Bồ-tát Di-lặc trở lại mà trang nghiêm cõi thế này. Chuyển hóa thế gian thành một Tịnh độ. Đây hẳn là mục tiêu của mọi Phật tử hướng về, là nội dung đích thực của mọi hạnh nguyện Bồ-tát, và cũng là chỉ hướng cho mọi việc làm có trí tuệ của con người thời đại.
T.P.H
CHÚ THÍCH
1. Gasammelte Aufsatze zur Religionssoziologie et Gasammelte Aufsatze zur Wvissenschaftlenhre. Hay xem L. Strausse; Droit naturel et histoire, nxb. Plon, Paris, 1954.
2. Thảm trạng Hít-le và thảm trạng Nam Tư cho ta hình ảnh cụ thể.
3. Đại Kinh Đoạn Tận Ái, Đại Tạng Kinh Việt Nam, Trung bộ I, 38, tr.559.
4. Từ đây xuống, được soạn phỏng theo quyển Tịnh Độ và Thiền, Phân viện Nghiên cứu Phật học, Hà Nội 1991, là bản Việt dịch một phần tư Diệu Văn Tập của Đại sư Ấn Thuận (TQ. 1906-?), nxb. Chính Văn Đài Loan.
5. Thường dưới dạng đạo tràng, với các Niệm Phật đường với các chùa là cơ sở vật chất làm nơi tụ hợp. Nên các Chùa và các Niệm Phật Đường trên nguyên tắc, không phải là của riêng ai.
6. Theo Pháp giới An lập đồ Phật giáo, được mọi học phái thừa nhận, Tịnh độ Đâu-suất, hay cõi trời Đâu-suất (Âm của chữ Tusita), cõi thứ 4 trong 6 cõi trời của Dục giới, là cảnh giới của phúc lạc. Các vị Đại Bồ-tát đã thực hành trọn đủ các ba-la-mật đều cư ngụ ở cảnh giới này, cho đến thời điểm thuận tiện các Ngài tái sanh vào cảnh người lần cuối và thành Phật ở đây.
7. Theo truyền thuyết, Ngài vì muốn thành tựu cho chúng sanh nên ngay từ lúc mới phát tâm đã không ăn thịt. Do đó Ngài có tên là Maitreya (Maitri-arya), hay Metteyya (Mettà-Arya), vị Thánh của lòng từ, âm của Di-lặc, dịch ý là Từ thị. Phật Di-lặc hay Phật của lòng từ mẫn, theo tạng Pali, là đức Phật thứ 5 trong ngàn đức Phật của Hiền kiếp, sau 3 vị Phật quá khứ: Phật Kkukkasantho (Câu-lâu-tôn), Phật Gonagamano (Câu-na-hàm-mâu-ni) và Phật Khassapa (Ca-diếp); và sau Phật Gotama (Cồ-đàm), tức Phật Thích-ca hiện nay.