Phần lớn ít ai phân biệt các phân đoạn đó trong mùa Hiếu hạnh, họ cứ gộp chung lại gọi là mùa cô hồn. Đối với Phật tử, Vu Lan là mùa báo hiếu cho cửu huyền thất tổ quá vãng, song đường tại thế bằng nhiều hình thức: “cầu siêu, cầu an, bố thí cúng dường, chẩn tế bạt độ…
Truyền tích về Mục Liên Thanh Đề cũng nhắc nhở tín đồ Phật giáo về hạnh hiếu đó, liên tưởng đến thập loại cô hồn của Nguyễn Du, vể “Tứ trọng ân” đối với cuộc sống xã hội; Như vậy, mùa Vu Lan không chỉ là mùa báo hiếu, mùa ân tình đối với vạn loại chúng sanh, mà còn là mùa trưởng dưỡng công đức và nội tâm quán chiếu. Đồng thời, suốt ba tháng an cư của Bắc Tông để kết thúc vào tháng bảy, là lúc ruộng phước phủ tràn màu mỡ để quần chúng gieo vào hạt giống phước điền; Nhờ nội lực đó mà sức chú nguyện của chư Tăng đến với kẻ còn người mất được triêm ân phước báu. Đó là tinh thần tự lực và tha lực hỗ tương cho nhau về sự tướng. Từ lý tánh của Phật giáo, triển khai đến sự tướng để tương thich với căn cơ sinh chúng, bởi Đức Phật từng dạy, hoằng pháp qua nhiều hình thức, không ngoài: “khế lý-khế cơ- khế thời” Mỗi quốc gia ảnh hưởng Phật giáo Bắc truyền đều có một hình thức báo hiếu khác nhau, nhưng cơ bản vẫn là một. Chính vì thế mà Phật giáo Bắc tông biến thiên muôn hình vạn trạng, lan truyền du nhập một cách uyển chuyển. Sự tướng là thế, nhưng lý tánh thì sao?
Rất nhiều tín đồ Phật giáo thiên hướng đến Thiền tông hoặc những pháp môn khác, họ khó hiểu về khoa nghi chẩn tế, thí thực cô hồn, liệu có thích hợp với tinh thần vô tướng, vô tác của nhà Phật? Từ đó, họ đặt vần đề xá tội vong nhân và những nghi lễ liên quan đến mùa Vu Lan tháng bảy hàng năm. Ngày nay, một số nhà nghiên cứu không đồng thuận “Vu Lan Bồn” dịch ra là “Cứu Đảo Huyền” từ nguyên ngữ của Pali hay Phạn ngữ, lối dịch như thế ảnh hưởng tinh thần văn ngữ của Mạnh Tử về hình phạt treo ngược đầu. Nều cứ đào sâu về sử liệu, cũng chỉ làm sáng tỏ một góc độ nào đó cho từ vựng Vu Lan, nhưng càng làm tối tăm cho kẻ hậu học muốn trực chỉ “kiến tánh” về ý nghĩa mùa xá tội, mùa báo hiếu, mùa độ sanh.
Suốt hơn 45 năm hành hóa, ngoài việc Thiền định và pháp thí, đức Phật chưa từng làm sám chủ chẩn tế bạt độ, chưa từng khuyến hóa dùng kinh điển làm phương tiện đảo nghiệp chúng sanh, mà chỉ hướng dẫn chúng sanh thoát nghiệp tự thân bằng học tập thực hành theo giáo điển. Suốt 9 tháng du hóa, an cư vào dịp sinh vật nhỏ bé sanh sôi nẩy nở trong mùa mưa, Phật dạy chư Tăng nên cấm túc để nỗ lực hành trì trong ba tháng, vừa trưởng dưỡng nội lực, vừa tăng trưởng tuệ giác xứng với vị thế của bậc Ứng Cúng, Bố Ma, phá ác…
Từ đó là ruộng phước cho của cúng dường nở hoa. Trong ba tháng đó, chư Tăng không những dừng lại bước du hóa, mà còn dừng lại mọi niệm tưởng, trụ vào giới đức để chuyển hóa nội tâm. Chư Tăng chưa đạt Thánh quả, vẫn còn nhiều mộng tưởng. Cho dù đạt Thánh quả như Alahan, theo Kimura Taiken trong bộ Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, còn mang xác phàm, vẫn còn bị mộng tinh do tập khí quá khứ tồn đọng. Như vậy, trong ba tháng chuyên cần, chấm dứt mọi vọng niệm, không có cơ hội cho tập khí sanh khởi, như trăng không bị mây che, không dẫm lên vi tế chúng sanh tánh nội tâm, từ đó công đức nở hoa.
Trong Phật giáo không có chữ hủy diệt mà chỉ có từ chuyển hóa. Quá trình hành trì là quá trình chuyển hóa; ngọn đèn chiếu đến đâu là bóng tối được chuyển hóa thành ánh sáng đến đó. Suốt 9 tháng sinh hoạt trong cộng đồng xã hội, ai không từng khởi niệm bất tịnh? Ai không từng sân đố khởi sanh? Ba tháng an cư là thời gian nhìn lại chính mình, tự chuyển hóa những tập khí cố hữu và ngăn ngừa tạp niệm phát sanh.
Thiền định là ngọn đèn chiếu rọi mọi ngõ ngách tâm hồn. Trong mỗi tề bào hiện hữu là hiện hữu chủng tử của cha mẹ ông bà nhiều đời. Tâm thức chuyển hóa là các tế bào được chuyển hóa, nghĩa là cửu huyền được siêu sanh khỏi ô tạp tăm tồi. Năng lực chuyển hóa tác động đến tâm nguyện cúng dường của thí chủ. Một tín thí tuyệt đối tin vào thần lực Tam Bảo qua ba tháng kiết hạ, thanh tịnh tâm, tín nguyện tâm đó cũng là hạt nhân chuyển hóa đời sống tự thân và tác động đến thân bằng quyến thuộc theo lý tương duyên; không những bảy đời quá vãng của thân bằng quyến thuộc mà chúng sinh tánh trong mỗi người con Phật cũng được chuyển hóa phóng sanh thóat khỏi tư tưởng tăm tôi từ địa ngục sân hận tham dục si mê. Bố thí, cúng dường là hành trạng tâm lý buông xả, cầu siêu bạt độ là thể hiện từ tâm. Như thế Vu Lan mới là mùa chuyển hóa để quần chúng khỏi ám ảnh về một trạng thái mê tín.
Các chùa, ngoài việc chẩn thí, an cư, cần đưa “sự và lý” song song cho quần chúng nắm vững tinh thần Vu Lan. Thời đại khoa học, làm sao họ tin hình phạt treo ngược đầu nơi địa ngục nếu họ không hiểu đó là biểu hiện tâm lý tội phạm mà kẻ phạm tội luôn ám ảnh tâm hồn bị dằn vật đảo ngược mọi đạo đức xã hội nơi tâm hồn họ.
Và : “ Phải toan sắm sửa chớ chầy, đồ ăn trăm món trái cây năm màu…” không phải một yêu cầu quá đáng khi mà cuộc sống cơ cực của người dân Ấn xa xưa cũng như hiện nay có thể đáp ứng, đó là tinh hoa nội tâm của mọi người được huyển hóa theo Duy thức Học, khi “Hàm Tàng Thức” chuyển thành “Bạch tịnh thức”thì trăm pháp của tâm sở cũng được chuyển hóa, cơ thể vật lý thanh tịnh, Ngũ Tạng là hoa quả năm màu dâng hiến cho tự tánh Tam Bảo trong mùa Vu Lam.
M.M