Trang chủ Sáng tác - Nghệ thuật Vẻ đẹp người phụ nữ Huế trong tranh

Vẻ đẹp người phụ nữ Huế trong tranh

125
0

Những tác phẩm ấy đã có ý nhân văn lớn lao trong việc khẳng định và làm tỏa sáng hơn những giá trị tinh thần, phẩm chất của con người Huế nói chung và của người phụ nữ Huế nói riêng. Vẻ đẹp lắng đọng, kín đáo của người phụ nữ Huế được coi là một mạch nguồn xúc cảm say đắm trong sáng tạo của các họa sĩ Việt Nam trong suốt thế kỷ XX.

Trải qua bao năm tháng, cảnh sắc, con người Huế cũng có nhiều thay đổi, nhưng cốt cách, phẩm chất thẩm mỹ bên trong của người phụ nữ Huế thì vẫn bền chặt, sâu lắng những cảm xúc, chiều sâu chất Huế. Hình ảnh của người phụ nữ Huế hiện ra với bao vẻ đẹp đời thường,bình dị mộc mạc. Những bóng hình và tâm trạng, tình cảm và nghĩ suy của người phụ nữ Huế xưa dường như còn đó trong tranh dân gian làng Sình như tranh Con ảnh nữ ,Đồ cô, Bà mối và trong bộ tranh Bát Âm rực rỡ sắc màu. Đến đầu thế kỷ XX cùng với sự xuất hiện của các chất liệu hội họa Châu Âu và kỷ thuật, phong cách tạo hình mới ,một số tranh chân dung các Bà Hoàng đã được thể hiện với bút pháp hiện thực trong phẩm phục cung đình cao sang, quý phái .

 
Chị em – họa sĩ Tôn Thất Đào

Nửa đầu thế kỷ XX nhiều họa sĩ hàng đầu của Việt Nam đã từng đến sống và vẽ về Huế, vẽ về những tà áo dài tím đã đi vào thi ca, âm nhạc, những tà áo trắng mộng mơ, tinh trắng trong thơ Hàn Mạc Tử. Mỗi thành công trong tác phẩm của họ là sự kết tinh của việc dày công nghiên cứu tìm tòi sáng tạo nghệ thuật riêng biệt, độc đáo.

Dưới ảnh hưởng không thể khác của mỹ thuật phương Tây, nhiều họa sĩ đã để lại những dấu ấn tạo hình đặc sắc như Lê Văn Miến, Tôn Thất Sa, Lương Quang Duyệt, Mai Trung Thứ, Tôn Thất Đào, Nguyễn Khoa Toàn, Nguyễn Đỗ Cung, Tô Ngọc Vân, Phạm Đăng Trí, Phạm Viết Song, Lương Xuân Nhị… Nhiều người đã để lại những tác phẩm hội họa có giá trị nghệ thuật cao không chỉ ghi nhận vẻ đẹp của cảnh sắc và xứ Huế mà còn khám phá vẻ đẹp chiều sâu, ẩn dấu thầm lắng của người phụ nữ Huế .

Những năm 30 ,Huế đón nhận nhiều họa sỹ từ Hà nội vào, họa sỹ Mai Trung Thứ là một trong số sinh viên khóa đầu tiên của Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đến Huế dạy vẽ ở Trường Quốc Học. Cũng như các họa sĩ khác khi dừng chân ở Huế, ông bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp của những thiếu nữ Huế dịu dàng, kín đáo, những ngôi nhà ẩn kín trong vườn, lăng tẩm rêu phong ,trầm mặc dưới rặng thông già, chùa chiền cổ kính. âm vọng tiếng chuông chiều.

Được biết trong những năm ở Huế,Mai Trung Thứ nghiên cứu nhiều về ca kỹ Huế , ông vẽ nhiều về các nhạc công ca Huế, một vài bức sau đó thuộc  về sưu tập của vua Bảo Đại và trưng bày ở Điện Kiến Trung cùng với tranh của nhiều họa sĩ khác. Trong các tác phẩm của Mai Trung Thứ có bức Thiếu nữ Huế vẽ năm 1939 rất đáng được chú ý. Đây là bức tranh đẹp và khá lạ đối với thời kỳ đó, cô gái có một vẽ trầm tư, đường nét thanh mảnh, đôi mắt to tròn lặng nhìn một cách hồn nhiên. Bàn tay đặt hờ hững ở quai nón trông thật dịu dàng, nữ tính, tà áo dài với vệt sáng phấn màu hồng trắng gợi lên bao cảm xúc về vẽ đẹp nội tâm của người con gái Huế những năm 1930.

Thiếu nữ Huế – Mai Trung Thứ

Phong thái của người thiếu nữ trong tranh của Mai trung Thứ được biểu đạt tinh tế, kín đáo với đôi chút trầm lắng, rụt rè của thiếu nữ Huế vùng “đây thôn Vỹ”, Kim Luông nền nã, giản dị đời thường mà có một sức hút kỳ lạ về vẽ đẹp nội tâm chứ không phải là một thiếu nữ đài các, “cành vàng lá ngọc” . 

Họa sỹ Phạm Viết Song là một trong những họa sĩ được mời vẽ chân dung Nam Phương Hoàng Hậu. Đó là một trong những kỷ niệm khó quên đối với ông vào năm 1944. Bức tranh này hiện đã bị mất, nhưng họa sĩ vẫn nhớ rõ : “Bà hoàng ngồi, gác chân sang đầu gối phải, hai tay đặt trên đầu gối trái, chân dung vẽ từ đầu gối trở lên. Bà mặc áo nhung the màu tím than, cổ đeo chuỗi hạt trai, mỗi hạt to bằng hòn bi ve. Bức chân dung được vẽ trên giấy Ingres, mặt giấy nhám, màu ngà, kổ 0,60 x 0,80 – Phấn màu của cửa hàng Lơfơrăng Pháp loại dùng để vẽ người”.

Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung  là một trong những họa sĩ tài năng thuộc thế hệ trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Năm 1941 ông vào Huế dạy học ở trường Thuận Hóa và trường Việt Anh cho đến năm 1944. Ông sống ở ngõ  Âm Hồn, ông vẽ nhiều tranh về Huế minh họa sách Nguồn sinh lựcNgoại ô của Nguyễn Đình Lạp. Ông nghiên cứu về đình đền, miếu chùa, cây đa, bến nước rất sát thực. Tranh của ông tiềm ẩn một cái đẹp riêng có chiều sâu của xứ Huế. Ông cảm nhận về vẽ đẹp phụ nữ Huế không phải ở bề nổi mà hướng về sự khám phá chiều sâu đặt hình bóng họ trong quan hệ với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng ,hòa hợp với cái đẹp vắng lặng của cổ tích trầm mặc.

Bức tranh Cổng thành Huế vẽ năm 1941 của họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung là một thành công của sự sáng tạo, tìm tòi về những sắc riêng của Huế, để Huế hiện ra trong dáng vẻ hoài cổ man mác nỗi buồn thời đại. Bức tranh cho ta thấy một buổi chiều của xứ Huế tím hồng có chuyển ít trắng nhẹ. Họa sĩ đã tả những vệt sáng trên nóc cổng thành của kinh thành Huế, màu xanh của ngói lưu ly và chuyển xuống bức tường gợi lên được nét xưa rêu phong cổ kính, họa sĩ chuyển màu vàng đậm sang màu vàng sáng trắng tạo nên sự hun hút của một con đường quen thuộc ở Huế, hình ảnh một người thiếu phụ trên đường vắng đã tạo cảm giác tĩnh lặng, đìu hiu của một buổi chiều xa vắng, nhung nhớ của Huế.

Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung đã khẳng định vững chắc vị trí của ông trong nghệ thuật tạo hình hiện đại Việt Nam từ những tranh đạt hiệu quả cao như vậy. Một số họa sĩ vẽ về Huế với một cảm giác bồng bềnh của một tâm hồn thi vị. Có thể nhận ra chất thi vị ấy trong tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Khoa Toàn. Ông vẽ khá nhiều về người phụ nữ Huế như tác phẩm Thanh minh ,Đường lên lăng ,Mẹ con.

Trong Thanh minh ông đã tạo nên một một sự gắn bó đến mức thân thuộc của hình tượng các thiếu nữ với cảnh núi Ngự Bình thông reo, trời trong xanh và nắng tỏa sáng trên nhứng sường đồi. Ông thường nghiên cứu chất liệu màu dầu, bột màu, và một số khá nhiều tranh vẽ phụ nữ theo lối thủy mạc Á Đông. và có lẽ lối vẽ nào của ông cũng tạo nên những tác phẩm đặc sắc. Nói về Nguyễn Khoa Toàn, ông Paul Mousset (Pháp) ca ngợi: “…đó là người biết tôn thờ cái đẹp” còn G. Besson- một nhà mỹ thuật học Pháp khác nói : “… ông cũng khéo léo vẽ tranh phong cảnh ,chân dung và làm nảy nở bao thi vị trong tác phẩm”. 

Chính những cái lắng đọng, trầm tư ở phong thái và lối ứng xử của ngưòi phụ nữ Huế đã tìm ẩn dấu một vẻ đẹp cuốn hút ,lôi cuốn sự khám phá ở nhiều họa sĩ Nhiều người tìm thấy sự hoài niệm về quá khứ ,điều này có thể cảm nhận được ở tranh của  họa sĩ Phạm Đăng Trí, một trong những họa sĩ thế hệ đầu ở Huế. Ông là người vẽ nhiều về cảnh đẹp xứ Huế, sông Hương núi Ngự, một vùng non nước thơ mộng hữu tình với bao đền đài lăng tẩm, những công trình kiến trúc hài hòa giữa thiên nhiên hòa quyện vào vẻ đẹp dịu dàng của các thiếu nữ Huế trong tà áo trắng,áo tím. 

Trong tranh Người suối bạc ông diễn tả cái đẹp nuột nà, mềm mại của người phụ nữ Huế trước 1945, tranh của ông phản ánh chân thực tư tưởng thẩm mỹ lúc bấy giờ. Những tà áo dài tím Huế bay lượn trong không gian, với mái tóc ôm ấp những khuôn mặt ngây thơ, trầm tư, đã tụ hội những yếu tố đẹp của thiếu nữ Huế thấm đượm công, dung, ngôn, hạnh.        

 
Tác phẩm Người suối bạc ( 54×100 cm, giấy dó, 1945) của họa sĩ Phạm Đăng Trí

Những cô gái Huế dịu dàng kín đáo – một mô típ phù hợp với trào lưu lãng mạn hiện thực bấy giờ và đó cũng là những cảnh dễ tạo cảm hứng cho các họa sĩ Tôn Thất Đào, ông đã thành công trong loạt tranh về sinh hoạt của người phụ nữ Huế như Chị em, Cô dâu, Ca Huế… Trong đó có những tâm tình kín đáo mà họa sĩ gửi gắm và cúng là cái riêng của họa sĩ khi cảm xúc về vẽ đẹp của thiếu nữ Huế. Những bức tranh mà các họa sĩ vẽ về thiếu nữ Huế những năm 30-40 đều có dấu ấn và có vị trí xứng đáng trong mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX. Những tác phẩm đặc sắc mà họa sĩ để lại rất có ấn tượng trong mạch thẩm mỹ của xứ Huế, góp phần làm rõ hơn diện mạo, bản sắc văn hoa Huế trong thế kỷ XX. Đồng thời đó cũng là những tác phẩm, những đóng góp đặc sắc cho toàn cảnh mỹ thuật Việt Nam hiện đại, đem lại niềm vinh dự tự hào cho Huế hôm nay và mai sau.

 Theo Thừa Thiên Huế Online

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here