Vẫn biết: “Năng lượng không tự nhiên sinh ra, cũng không tự nhiên mất đi mà nó chỉ biến từ dạng này sang dạng khác”; rõ ràng Định luật Bảo toàn năng lượng này giúp chúng ta hiểu một cách nom na về qui luật Hetuphalam (Nhân Quả, Causes and Effects). Xét mệnh đề đầu “Năng lượng không tự nhiên sinh ra, cũng không tự nhiên mất đi”, tuy nó không nói đến sự có mặt của các pháp là do “chúng tập họp duyên” như chủ trương của Phật giáo, nhưng nó nhấn mạnh đến qui luật Hetuphalam, chứ không phải do ‘tự nhiên’ sanh. Trong cụm từ kế tiếp “chỉ biến từ dạng này sang dạng khác”, chữ “dạng” ở đây tức là hình dạng, vóc dáng hoặc tướng trạng của saṃskṛta (pháp hữu vi). Đối với các pháp hữu vi, sự biến thái và tuần hoàn của loài vô tình, như: nước (biển) gặp nóng bốc hơi thành mây, mây gặp lạnh tụ lại thành mưa, rồi mưa xuống thành nước; hoặc của loài hữu tình, như: ếch/nhái đẻ ra trứng, trứng nở thành nòng nọc (có đuôi), nòng nọc lớn dần rụng đuôi, rồi biến thành ếch/nhái. Đặc biệt, cả cụm từ “chỉ biến từ dạng này sang dạng khác” có thể được hiểu theo nghĩa lý của Saddharmpuṇḍarīka-sūtra (kinh Pháp Hoa), như đức Phật dạy: “Như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh bình đẳng“. Vì sao? Vì đó là “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”. Như vậy, cả Định luật ấy và Saddharmpuṇḍarīka-sūtra cho thấy các pháp diệt rồi nhưng không phải là mất hẳn, mà chỉ biến đổi hoặc thay hình đổi dạng khác, ở một nơi khác, tức là từ dạng tướng, đến tánh, đến thể, lực, … quả, báo của các pháp đều bình đẳng như thế. Sự giải thích này cho thấy ‘diệt mất nhưng không phải là hết’, hoặc ‘sau khi chết không phải là hết’, mà vẫn còn lưu chuyển trong vòng saṁsāra (luân-hồi), hoặc tridhātu, triloka (tam giới, ba cõi): karmadhātu/karmaloka (Dục giới-Desire-world/element/realm, Existence world), rūpadhātu/rūpaloka (Sắc giới-Form-element/realm) và arūpadhātu (Vô sắc giới – Formlessness-element). Sau khi chết, theo Jünjiro Takakusu, không phải là hết, mà nó là sự bắt đầu đi xuyên qua một quá trình sinh-diệt tương tự ở một cảnh giới khác và vòng sống cứ lập đi lập lại mãi như thế (1). Lại nữa, cụm từ “biến từ dạng này sang dạng khác”, theo Tâm lý học Phật giáo, có thể hiểu qua câu: “Khứ thệ lai tiên tác chủ ông” (đi sau, đến trước, làm ông chủ) trong Bát Thức Qui Củ Tụng. Nếu phi “thức”, vậy cái gì đi sau và cái gì đến trước để trở thành ông chủ (?). ‘Thức’ (vijñāna, Consciousness) thuật ngữ này đã được giải thích rất nhiều trong các Kinh và Luận của Phật giáo Đại thừa (2).
Thuật ngữ “thức”, theo Prakaraṇarayavācā-śāstra (luận Hiển Dương Thánh Giáo), gồm có tám loại: A-lại-gia thức, nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý và ý thức. Thức A-lại-gia, theo Luận này, tức là nghiệp phiền não do đời trước tạo tác tăng trưởng làm duyên, do sự huân tập hý luận làm nhân, và từ nhân duyên ấy sanh ra tất cả chủng tử (hạt giống) dị thục khác nhau làm thể. Thức này có khả năng làm nơi nương tựa và chấp thọ của hết thảy các căn, sắc căn và sự huân tập hý luận. Trong tất cả thời, tuy mỗi chủng tử lúc sanh hay diệt đều không thể rõ biết, nhưng nó lại có khả năng giữ gìn hết thảy cảnh giới bên ngoài và cùng tương ưng với bất khổ bất lạc thọ. Thức A-lại-gia thuần một hướng vô phú vô ký cùng với thức chuyển, v. v… tác thành nghiệp; vì sự chuyển biến của Thức A-lại-gia có thể gây tổn giảm đến sự thanh tịnh, cho nên tác thành nghiệp. Làm thế nào để biết rằng có thức A-lại-gia này?(3) Đức Phật dạy: “Do vô minh che lấp cùng với kiết sử tham ái trói buộc, cho nên hàng phàm phu chiêu cảm mà thành thân của nghiệp thức” (4). Lời dạy này cho thấy rằng có thức A-lại-gia của nghiệp dị thục. Lại nói rằng có năm loại chủng tử, mà chúng là những chủng tử của thức có chấp thủ. Điều này cho thấy rằng thức A-lại-gia có tất cả các chủng tử; vì trong Sandhinirmocara sūtra (kinh Giải Thâm Mật), đức Phật dạy: “A-đà-na thức thậm thâm tế, nhất thiết chủng tử như bộc lưu, Ngã ư phàm ngu bất khai diễn, khủng bỉ phân biệt chấp vi ngã” (5). (Nghĩa là: Thức A-đà-na rất cực nhỏ, hết thảy hạt giống như thác dốc; đối với người ngu, Ta không nói; ngại họ phân biệt, chấp làm ngã). Lại nữa, “thức” thường gọi chung của một trong ba danh xưng: tâm, ý và thức (6).
Nhãn thức, theo Luận này, là từ nơi chủng tử của thức A-lại-gia sanh, lại nương vào nhãn căn cùng với chủng tử của thức A-lại-gia kia đồng thời chuyển biến và duyên vào cảnh giới liễu biệt của sắc làm tánh. Đức Phật dạy: “Cõi bên trong của mắt không làm hoại cảnh giới của các sắc bên ngoài; đối cảnh trước mắt do sự tác ý kia sanh khởi như thế, cho nên nhãn thức sanh”. Ngài lại dạy: “Do mắt và sắc làm duyên, cho nên nhãn thức sanh khởi. Nhãn thức cho đến thân thức cũng nên biết như vậy”. Trong những thức (nhĩ, tỷ, thiệt, thân) ấy, sự khác nhau ở chỗ: mỗi thức nương tựa nơi căn và cảnh của nó và phân biệt rõ biết tất cả sự dẫn dắt đều tương hợp (7). Ngoài ra, nhãn thức sanh khởi là do sự giao thoa của ba yếu tố: căn, trần và chủng tử của thức A-lại-gia. Như trong Sandhinirmocara sūtra, đức Thế Tôn dạy: “Vì thức A-đà-na là nơi nương tựa, là chỗ kiến lập. Sự chuyển biến của sáu thức thân có nghĩa là nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý thức; trong sự chuyển biến này có thức. Mắt và sắc làm duyên, sanh ra nhãn thức. Nhãn thức đều tuỳ vào cảnh giới và thời điểm để hoạt động, có sự chuyển biến của ý thức phân biệt” (8). Đối với nhãn thức, nếu cứ vào ý nghĩa: “Cõi bên trong của mắt không làm hoại cảnh giới của các sắc bên ngoài; đối cảnh trước mắt do sự tác ý kia sanh khởi như thế, cho nên nhãn thức sanh”, thì về lãnh vực tâm lý có vẻ dễ hiểu hơn; vì “nội nhãn xứ” tức “cõi bên trong của mắt” đang duy trì các chủng tử trong thức A-lại-gia, hoặc trong tathāgata-gārbha (Như Lai tạng). Trong tám thức, như Prakaraṇarayavācā-śāstra đã vừa nói, trừ thức A-lại-gia, ý và ý thức, năm thức khác còn lại cũng nên hiểu tương tợ như nhãn thức vậy. Thế nhưng, ngoài mắt và sắc làm duyên sanh ra nhãn thức; sự sanh khởi của nhãn thức cần phải hội đủ 9 duyên: căn (sense-organ), cảnh (object), không gian (space), ánh sáng (light), chủng tử (seed), nhiễm tịnh căn (Manas, thức thứ 7, Mạt-na thức), căn bản y (ālayavijñāna, thức thứ 8, A-lại-gia thức), phân biệt y (Manovijñāna, thức thứ 6) và sự tác ý (attention). Sự sanh khởi của nhĩ thức, trừ ánh sáng trong 9 duyên; còn sự sanh khởi của tỉ, thiệt và thân thức chỉ lệ thuộc 7 duyên, tức là trong 9 duyên ấy, trừ ánh sáng và không gian. Chín duyên này, cho thấy “nhãn thức” đóng vai trò rất quan trọng trong tiền ngũ thức.
Nói nhãn thức chứ không phải là Thiên nhãn, như ngài A-na-luật đã chứng (9), và như trong bốn Thầy trò của Đường Tăng trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, phi Tôn Ngộ Không, người có Thiên nhãn, thì không ai có thể thấy được yêu quái. Đặc biệt, Tôn Ngộ Không là sự biểu hiện của “thức”, thoạt hiện, thoạt biến; như trong khoảnh khắc Ngộ Không đã có mặt ở Thiên cung, rồi thoáng chốc cũng có thể xuất hiện ở Long cung. Lại nữa, vì danh xưng là “Ngộ Không” biểu hiện cho vô tướng; vì vô tướng cho nên Ngộ Không có thể hiện bất kỳ tướng nào. Cũng vậy, khi chưa chứng được Thiên nhãn, thì không thể thấy được năng-dụng-vị thức vi tế hoặc các cảnh giới siêu hình, mà nhất là lãnh vực “khứ thệ, lai tiên tác chủ ông”, cũng không thể thấy được “thần thức” đi đâu và về đâu sau khi chết. Nhưng tính hiếu kỳ của phàm phu là muốn tìm hiểu con người sau khi chết sẽ đi về đâu, hay sau khi chết là mất hẳn? Vậy “thần thức” sẽ đi đâu, hoặc đến chốn nào? Tựu trung, nghi vấn này liên quan đến vấn đề nhân quả. Nếu tu nhơn tích đức bằng cách hành thiện và trì tịnh giới, thì sau khi chết sẽ được sanh Thiên giới; trái lại, nếu tạo ác sẽ theo nghiệp dẫn dắt, hoặc tái sanh làm người, hoặc trong tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh). Đối với qui luật nhân quả, không ai có thể tránh được; vì tạo thiện hay ác suốt thời sinh tiền đều do nghiệp dẫn dắt tái sanh.
Như đối với người sắp lâm chung, nếu ai để ý thì sẽ thấy trước khi trút hơi thở cuối cùng người sắp chết thường biểu hiện bằng thao tác ‘hạ thổ’ (10). Nếu lúc ấy mắt còn mở, thì người thân nhẹ tay vuốt cho mắt của người chết nhắm nghiền. Kế đó người thân nhẹ tay sờ vào trán hoặc chân, cốt xem thử chỗ nào ấm hay lạnh. Nếu có cảm giác ở trán người chết còn ấm tức là được sanh thiên hoặc làm người; còn nếu sờ thấy chân ấm thì ngầm biết sẽ thác sanh vào cõi dữ, ác thú. Thoáng nghe qua, có vẻ như mê tín, nhưng điều này ngài Vô Trước (Āsaṅga) cũng đã đề cập trong Nhiếp Luận như vầy: “Hựu tương một thời tạo thiện tạo ác, hoặc hạ, hoặc thượng, sở y tiệm lãnh” (11). Đến khi hơi ấm không còn, toàn thân lạnh cứng, tức là lúc thần thức đã lìa khỏi thân, và ngay lúc ấy gọi là “khứ thệ” (thần thức lìa thân cũ ở những giây khắc sau cùng). Nhưng cũng có vài trường hợp đặc biệt là khi toàn thân lạnh cứng không còn hơi ấm nữa, mà thần thức dường như vẫn không rời bỏ hẳn thân ấy. Lắm khi thân đã được an táng, hoặc đã được thiêu rồi, nhưng có lúc thần thức vẫn còn lai vãng; vì có lẽ thần thức chưa tìm được nơi để đầu thai (thọ thân mới); hoặc sự cách ly giữa thần thức và xác thân vô hồn ấy, nơi vô hình trung vẫn còn một sự liên đới thiêng liêng không rời. Khi hơi/hương ấm (thần thức) rời thân, thì được gọi là ‘khứ thệ’; còn nếu tìm được nơi và đến để thọ thân mới, thì được gọi là ‘lai tiên’. Khi đã đủ duyên để tác thành một thân mới mà có đầy đủ cả danh và sắc đang còn trong thai mẹ thì vẫn được gọi là ‘tác chủ ông’. Nói ‘tác chủ ông’ ở đây, tức là khi hài nhi ra khỏi thai mẹ, đủ duyên cho một cuộc sống mới. Chính vì những yếu tố này, cho nên Bát Thức Quy Củ gọi là “khứ thệ lai tiên tác chủ ông”.
(Còn nữa)
T.K.Đ
Chú thích
1. Xem Takakusu, Jünjiro, The Essentials of Buddhist Philosophy, Motilal Banarsidass, 1998, Delhi, tr. 24.
2. Vì không gian có hạn, ở đây sẽ không bàn đến “Ba thức năng biến”. Ba thức này là: Đệ nhất năng biến-ālayavijñāna (Store-consciousness), biểu tượng bản thể, tức thế giới quan (World outlook); Đệ nhị năng biến-manasvijñāna, the Seventh Consciousness, biểu tượng hành tướng, tức nhân sinh quan (Outlook on life); và Đệ tam năng biến-Pravṛttivijñāna, biểu tượng hoạt dụng, tức tri thức luận (logical knowledge), mà ngài Vasubandhu (Thế Thân) đã trình bày trong Triṁsikā vijñaptikārikā (luận Tam Thập Tụng).
3. Xem thêm chi tiết, HT. Thích Thiện Siêu, Luận Thành Duy Thức, VNCPHVN, 1996, tr. 128-138.
4. Đại Chính 1602, tr. 480c3.
5. Kệ này trong Sandhinirmocara sūtra (kinh Giải Thâm Mật_Đại Chính 676, tr. 692c22), đã được ngài Āsaṅga (Vô-trước) viện dẫn để minh hoạ cho quan điểm của mình. Tương tự ý này, chúng ta cũng có thể tìm thấy trong Sūraṁgama sūtra (kinh Lăng-nghiêm), đức Phật dạy: “Đà-na vi tế thức, tập khí thành bộc lưu, chơn phi chơn khủng mê, Ngã thường bất khai diễn”. (Nghĩa là: Thức Đà-na cực nhỏ, tập khí thành thác dốc; chơn, chẳng chơn, sợ mê, Ta thường chẳng khai diễn) Đại Chính 945, tr. 124c22.
6. Nhưng “thức” ở đây là chỉ cho thức A-lại-gia, còn được gọi là A-đà-na, như đã đề cập trong Sandhinirmocara sūtra (kinh Giải Thâm Mật) và Mahāyāna-saṃparigraha-śāstra (luận Nhiếp Đại thừa); có khi thức A-lại-gia còn được gọi là “tâm”, một trong ba danh xưng: tâm, ý và thức, như đã nêu trong Prakaraṇarayavācā-śāstra (luận Hiển Dương Thánh Giáo). Xem Đại Chính 676, tr. 692a27 & b; và xem Đại Chính 1602, tr. 480b26; cũng xem chi tiết trong Đại Chính 1594, tr. 133c5.
7. Đại Chính 1602, tr. 480c16.
8. Đại Chính 676, tr. 692b19.
9. Đại Chính 475, tr. 541a23.
10. Tức là người sắp chết như thể dồn hết sức mình bằng trạng thái có vẻ đau đớn hay quằn quại; hoặc giật nẩy mạnh người lên, hoặc ưởn người lên, rồi tay với xuống phía dưới đất, trông rất mệt mỏi và khổ đau trước lúc vĩnh biệt. Trái lại, người xuất gia trước lúc lâm chung thì thao tác nhẹ nhàng hơn, hoặc vị ấy hít một hơi vừa để lấy trớn, rồi hít tiếp một hơi thật sâu vào rồi thở thật mạnh ra cho đến khi hơi thở yếu dần và từ bỏ báo thân.
11. Đại Chính 1594, tr. 136b3. “Lại nữa, khi chết thì tuỳ điều thiện hay điều ác đã làm mà cái thân sở y, hoặc bắt đầu từ dưới trở lên, hoặc bắt đầu từ trên sắp xuống, dần dần phát lạnh”. HT. Trí Quang dịch, Nhiếp Luận, 1994, tr. 114.