Trang chủ Phật học Vai trò của Thiền trong khí công

Vai trò của Thiền trong khí công

160
0

Thiền (còn gọi là Thiền-na), theo Phật giáo định nghĩa là tư duy hay tịnh lự. Tư duy có nghĩa là tu tập bằng phương pháp suy nghiệm, nghiên tầm và suy cứu về những đối tượng của tâm thức. Tĩnh lự có nghĩa là dùng tâm thể vắng lặng để thẩm sát đối tượng. Một tên gọi khác là thiền định hay Tam-muội, được phiên âm từ chữ Samadhi trong tiếng Phạn, có nghĩa là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất, không để cho tâm ý tán loạn.

Tu thiền theo Phật giáo là giữ cho tâm vô vi, chánh niệm, không tạo nghiệp trong kiếp này để kiếp sau thoát được vòng luân hồi sanh tử. Kỹ thuật là ngồi hoa sen tĩnh tọa chánh niệm theo sổ tức đếm số hoặc theo hơi thở, cao hơn là vô vi trí não không để tạp niệm xen vào đầu óc. Trong lúc thiền, hành giả thở bình thường, không vận khí, không tưởng tượng bất cứ gì khác. Như vậy là nội tâm và ngoại cảnh đều tĩnh. Lối tu này giống với phương pháp của y khoa hiện đại, có tác dụng rửa não, trị và phòng được một số bệnh về tâm lý. Tuy nhiên, để trị được bệnh của cả tâm và sinh lý một cách có hiệu quả, hành giả cần phải thực hành song song với khí công.

Khí trong khí công là một dạng vật chất vi năng lượng, sinh tồn theo các kinh mạch để nuôi cơ thể. Nó là một chất vô hình mà ta không thể sờ mó được, không màu, không vị; cũng không thể thấy bằng mắt thường và cho tới bây giờ khoa học vẫn chưa xác định được, ta chỉ biết được qua hiện tượng và kết quả vận động của nó mà thôi. Khí ở khắp nơi trong vũ trụ và ở trong cơ thể ta, thiếu nó thì ta sẽ không thể tồn tại. Nhưng cũng đừng hiểu lầm răng khí là ô xi hay không khí, vì ô xy hay không khí thì ta có thể sờ mó được, thậm chí có thể thấy được. Khí theo ô xy vào phổi và từ đó vào máu, tụ tại đan điền để tụ tại chân khí. Mũi, hậu môn, hai lòng bàn tay (huyệt lao cung), hai lòng bàn chân (huyệt dũng tuyền) và da là những nơi thu hút khí.

Nguồn gốc của khí có hai loại là tiên thiên khí và hậu thiên khí. Tiên thiên khí bao gồm nguyên khí và tông khí. Nguyên khí trong mỗi cơ thể được truyền lại bởi tinh cha huyết mẹ từ lúc còn trong bào thai. Nơi chứa nó là huyệt mệnh môn (nằm ở sau lưng, đối diện với rốn, thuộc long hỏa, tức con rồng lửa, đóng vai trò quan trọng cho sự trường thọ của con người) và nó sẽ suy giảm nếu cơ thể bị yếu, bị bệnh mãn tính lâu ngày, hoặc do trác táng, không bế tinh. Vì vậy cần thực tập thở thận và thở mệnh môn để tăng cường nguyên khí. Tông khí tuy là khí tiên thiên nhưng do mẹ truyền cho con từ trong bài thai, nếu tông khí của mẹ yếu thì ở người con cũng yếu.

Hậu thiên khí cũng có hai loại là thiên địa khí và thủy cốc khí. Thiên địa khí gồm thiên khí thu vào từ thiên nhiên qua bốn ngõ: mũi, hậu môn, hai lòng bàn tay và khí ở mặt đất được hút vào ở hai lòng bàn chân. Cơ quan phân phối nó là phổi và nơi chứa là huyệt thần khuyết (rốn). Thủy cốc khí thì do ăn uống hằng ngày mà tạo nên, cơ quan phân phối là tỳ vị và nơi chứa là thần khuyết.

Nói theo thuyết Âm dương thì khí có hai loại là âm khí và dương khí. Nói theo thuyết Ngũ hành thì khí có năm loại: kim khí, mộc khí, thủy khí, hỏa khí, thổ khí, đại diện cho ngũ tạng.

Tính chất của hai khí này lại được chia làm hai là chân khí và tà khí. Chân khí do thức ăn, thức uống (tiên thiên khí và hậu thiên khí) tạo thành. Muốn luyện chân khí thì phải tập dưỡng sinh khí công, tức vận khí. Khi luyện tập, chân khí ở đan điền biến thành ngũ hành khí, phân phối cho các tạng: can, tâm, thuận, tỳ, phế. Tà khí gồm có sáu khí: hàn, táo, hỏa (hại can, phế, tâm), thử, phong, thấp (hại thận, tâm bào tam tiêu, tỳ). Ba khí đầu thuộc dương và ba khí sau thuộc âm. Tà khí có tác dụng gây bệnh tật cho cơ thể.

Tác dụng của khí cũng có hai là vinh và vệ. Vinh khí do ăn uống mà thành. Ăn uống quá độ sẽ làm loãng vinh khí; ngược lại ăn uống thiếu thì làm giảm vinh khí. Nó thuộc chân khí và thường đi trong lòng mạch. Những bài tập Thái cực quyền, Hồi xuân công, Bát đoạn cầm, Tẩy tủy kinh là để luyện khí này.

Ngược lại vệ khí do thức ăn uống thuộc dương tạo thành, nó đi ngoài lòng mạch máu ở gân, cân, cơ và các khoang ngực, bụng. Vì thuộc dương nên bên trong thì sưởi ấm tạng phủ, bên ngoài nó bảo vệ gân, cân, cơ, lỗ chân lông, chống lại với ngoại tà khí và giúp cơ thể gia tăng hệ miễn dịch. Vệ khí được tăng cường trong quá trình luyện tập võ thuật, động công, ngoại công, tức trong những môn tập cơ bắp như luyện Dịch cân kinh, Thiết bố sam (chỉ có vệ khí), Thái dương công (vừa vinh khí vừa vệ khí).

Tóm lại, nguyên khí, tông khí, chân khí, âm khí, dương khí, ngũ hành khí, vinh khí… chỉ là một loại, nó ở trong lòng mạch để nuôi cơ thể. Khi chân khí của ta cạn kiệt thì phải nhờ nguyên khí tiên thiên và hậu thiện dự trữ chống đỡ; nếu bị tiêu hao nữa thì ta không thể sống được. Vệ khí cũng là khí trong cơ thể nhưng ở ngoài lòng mạch máu, nó có nhiệm vụ bảo vệ. Tà khí là khí độc ở ngoài cơ thể quanh ta, xâm nhập vào để gây bệnh và có loại ở trong cơ thể do chuyển hóa mà thành như: CO2, và các chất ô xy hóa khác…

Khí công giúp cho việc luyện tinh hóa khí, khí hóa thần, đả thông kinh mạch từ đó có được trường thọ vô bệnh. Nó có thể phòng và trị được những bệnh mãn tính của lục phủ ngũ tạng và thần kinh. Kỹ thuật của khí công đa dạng nhưng không ra ngoài hai loại chính là khí công động và khí công tĩnh. Khi luyện khí công tĩnh thì kỹ thuật cũng giống như thiền, có nghĩa là ngồi hoa sen tĩnh tọa nhưng ở đây có vận khí, thở bụng dưới (đan điền) theo tiết luật và tưởng tượng đường khí đi vào các kinh mạch. Như thế là ngoài tĩnh mà trong động. Với khí công tĩnh phải xóa bỏ tạp niệm, nhập tĩnh tối đa, do đó rất dễ bị tẩu hỏa nhập ma nếu nhập tĩnh không tốt và tạp niệm xen vào hoặc tưởng tượng sai đường đi vào các kinh mạch. Luyện khí công động theo với động tác thì an toàn hơn vì không có sự tưởng tượng, chỉ cần tập trung tư tưởng là đủ.

Từ hai mục tiêu khác nhau ở trên, ya thấy Thiền không gây tẩu hỏa nhập ma vì không có vận khí tưởng tượng gì ca; còn khí công tĩnh thì lại dễ bị. Phần đông đều lầm khí công tĩnh là thiền nên cứ quy cho là thiền dễ gây tẩu hỏa nhập ma. Sở dĩ có sự lầm lẫn này là do phương pháp thực hành mà thiền và khí công đều có cách ngồi giống nhau. 

Vậy, thiền có thể giúp gì cho khí công?

Trong khí công, khi vận khí, nếu tâm không an định thì sẽ không nhập tĩnh được, không thư giãn, thả lỏng được từ đó khí sẽ bị bế tắc, không thể lưu thông và cũng không bao giờ đạt được cảnh giới cao nhất là hòa đồng vũ trụ, đạt đến thần hoàn hư để đi đến thần hoàn đạo giữa đời thường. Mà muốn cho tâm an định thì phải cần đến thiền của Phật giáo, khí công lấy thiền để giải quyết cái nhập tĩnh tối cao nhất mà điều khí đi toàn bộ cơ thể và tiến đến tâm ý khí hình hợp nhất. Nếu không có thiền thì khí công chỉ luẩn quẩn trên đường xiên của cái hình tháp, trèo lên rồi trụt xuống không bao giờ lên được đỉnh cao chót vót của hình tháp, rồi cuối cùng chỉ đạt đến cái hình như thể dục mà thôi, uổng công phu tu luyện trong khí công tĩnh cũng như động.

Hầu hết các bài khí công tĩnh cũng như động của trường phái Trung Quốc đều căn cứ vào thuyết Dịch lý. Nghĩa là lấy vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh ra 64 quẻ rồi từ đó có con người.

Khi luyện tập khí công, muốn khí chạy là phải đi từ vô cực, mà muốn có vô cực thì phải nhờ đến thiền; tức là trước tiên phải làm động tác ngồi hoặc đứng yên nhắm mắt thiền định vài phút để giữ cho trí não vô vi, tâm an định và cơ thể thư giãn, thả lỏng, chánh niệm ở hơi thở ra vô bình thường không vận khí, như thế là ta sẽ có vô cực rồi khi tập bài khí công khí sẽ lưu thông tuần tự đi vào thái cực trơn tru theo dịch lý Trung hoa như đã nói trên, ở động công thì gọi là thiền động như bài thái cực quyền chẳng hạn. Nhất là ở khí công tĩnh, thiền rất cần để nhập tĩnh tốt đi đến mức cao siêu là thần hoàn hư và hòa đồng vũ trụ như các đạo gia tu tiên trên núi ở Trung Quốc ngày xưa, thiếu thiền thì không thể luyện thành công khí công ở mức độ cao cấp như tam điền qui nguyên và tam hoa tụ đỉnh và ở giai đoạn thượng thừa như luyện tử kim hoàn (mở huyệt bách hội ở đỉnh đầu và huyệt ấn đường ở giữa 2 mắt) và thần hoàn hư (thần trở nên vô vi trống không, vỏ não bị ức chế toàn bộ đưa đến hoà đồng với đại vũ trụ bên ngoài).

Sau khi tập bài khí công xong, ta thực hiện thiền để cho thần kinh trí não trở về bình thường và cơ thể lại được thư giãn tránh tác dụng phụ không mong muốn khi ngưng tập. Cho nên, áp dụng thiền đi vào khí công là điều thiết yếu không thể thiếu được cho những ai luyện khí công, thiếu nó ta sẽ khó mà thành công.

Thiền đã giúp cho việc vận khí được dễ dàng như vậy thì ngược lại, khí công giúp cho việc tham thiền nhập định cũng không ít. Như đã nói mục tiêu của khí công là đạt đến sự vô bệnh trường thọ, mà trong cuộc đời, người tu hành nếu không đúng cách thường dễ mắc phải bệnh tật, đôi lúc tu thiền chưa được bao lăm thì ngã bệnh đưa đến tử vong, uổng công kiếp sau phải tu nữa. Do đó khí công có thể giúp cho người tu thiền có được sức khỏe trường thọ mà yên tâm tu tập cho dài năm dài tháng, không bị dang dỡ nửa chừng vì bệnh tật.

Một khi vận dụng được thiền vào khí công, ta sẽ có được cái thần rất cao siêu, thông minh hơn, bớt nóng nảy hơn, tâm hồn bằng an hơn, có thể biết trước được thời điểm chết một cách bình tĩnh và không sợ hãi.

Muốn có được quán tính nhập tĩnh tốt trong khí công ta phải tập thiền trước đã. Tối thiểu mỗi ngày phải ngồi thiền ít nhất là 30 phút. Các đạo gia Trung Quốc thường song song luyện khí công họ đều tu thiền phật giáo, như vậy rất dễ đạt đỉnh cao trong tu luyện khí công.

Tóm lại Thiền và Khí công bổ túc cho nhau. Nếu đem so sánh về phạm trù tâm linh thì thiền cao hơn khí công một bậc. Nhờ thiền mà khí công có thể đạt đến đỉnh cao và tư duy sáng suốt hơn để có thể sáng tạo ra khí công. Như vậy có thể nói thiền đẻ ra khí công cũng không sai theo như một số trường phái Phật gia đã xác định.

L.V.V
 

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here