Sáng 24-12-2013 (22-11-Quý Tỵ) tại chùa Từ Ân, Huế, Tăng chúng bổn tự đã trang nghiêm tổ chức lễ tưởng niệm lần 21 năm ngày Hòa thượng Thích Trí Quảng viên tịch.
HT. Thích Huệ Ấn, Thành viên HĐCM GHPGVN, Giáo Phẩm Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh TT. Huế; HT. Thích Lưu Hòa, Giáo Phẩm Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh TT. Huế; HT. Thích Trí Hải, Thành viên HĐCM GHPGVN, Phó Trưởng Ban Thường Trực BTS GHPGVN tỉnh Quảng Trị, Trú Trì Tổ Đình Sắc Tứ; HT. Thích Chánh Huyền, Phó Trưởng BTS GHPGVN tỉnh, Trưởng BTS GHPGVN huyện Triệu Phong; chư Tôn Hòa thượng Giáo phẩm Chứng minh Ban Trị sự, chư Tôn đức Thường trực BTS; các Ban ngành trực thuộc, chư Tôn đức BTS GHPGVN các huyện Thị xã, các Tổ đình, Tự viện cùng đông đảo Phật tử các giới trong và ngoài tỉnh đã về dâng hương, đảnh lễ, tưởng niệm ôn lại cuộc đời và đạo nghiệp của Ngài là một vị chân tu khả kính, lối sống bình dị, gần gũi và thân thiện đạo tình với chư Tôn đức Tăng, Ni cùng Phật tử thiện tín không phân biệt thân sơ, giàu nghèo với những lời nói chuyện giản dị mà thâm sâu của cố Hòa thượng lúc sinh thời là điều mà mọi người nhớ nhất, mến nhất là tấm gương sáng cho các thế hệ hậu bối noi theo công hạnh của Người.
Hoà thượng huý Không Tâm, hiệu Bích Đàm, tự Trí Quảng; thế danh Đỗ Trí Quảng, sinh năm Ất Mão (1915); nguyên quán tại Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Gia đình Hoà thượng có truyền thống Phật giáo lâu đời. Song thân là cụ Đỗ Cận và cụ bà Lê Thị Cầm. Ngài là em ruột Hoà thượng Hưng Mãn, Trú trì chùa Kim Tiên. Ngài xuất gia cầu Pháp với Hoà thượng Chánh Thống Bích Phong ở chùa Quy Thiện; sau một thời gian Ngài được Bổn sư truyền Sa di thập giới. Ngài là Thủ Sa-di. Đến năm 25 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ Cụ túc giới tại chùa Tịnh Quang, Quảng Trị.
Năm 1945, Ngài đảm nhận Chánh Hội trưởng Hội Phật học tỉnh Quảng Trị. Năm 1947, Ngài giữ chức Phó Hội trưởng kiêm Trú trì Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng.
Năm 1951, Giáo hội Tăng già Thừa Thiên mời Ngài về trú trì chùa Từ Ân; Ngài đã trùng kiến ngôi cổ tự này.
Năm 1968, Ngài dạy ở Phật học đường Báo Quốc, và dạy Chuyên khoa Cao đẳng Phật học Liễu Quán ở chùa Linh Quang, Huế. Kiêm nhiệm trú trì, kế thế Bổn sư ở chùa Quy Thiện.
Năm 1977, Ngài được mời làm Đệ lục Tôn chứng tại Giới đàn Báo Quốc. Năm 1981 và 1990, Ngài ở hàng Giáo phẩm Chứng minh của Tỉnh Giáo hội.
Cố Hoà thượng Thích Trí Thủ có bài thơ đề tặng Ngài như sau:
智 為 萬 行 力 先 峰
広 播 慈 恩 日 照 紅
一 念 空 心 心 即 佛
光 回 帰 善 得 無 心
Phiên âm:
“Trí vi vạn hạnh lực tiên phong,
Quảng bá Từ Ân nhật chiếu hồng
Nhất niệm không tâm tâm tức Phật
Quang hồi Quy Thiện, đắc vô tâm.”
Nguyên Hồng dịch:
“Trí là muôn hạnh sức tiên phong
Quảng bá Từ Ân trọn tấm lòng
Một niệm không tâm, tâm tức Phật
Về chùa Quy Thiện được vô tâm.”
Ngài an nhiên thị tịch lúc 1 giờ 45 phút sáng ngày 22 tháng 11 năm Nhâm Thân (15-12-1992) hưởng thọ 77 tuổi, Ngài thuộc thế thứ 42 Lâm Tế chánh tông.
Chư tôn Hòa thượng dâng hương tưởng niệm
Và đảnh lễ giác linh Hòa thượng
Cưt hành lễ cúng ngọ
Tặng chúng bổn tự đảnh lễ Giác linh cố Hòa thượng
Đông đảo Phật tử tham dự
N.N