Trang chủ Nghiên cứu – Trao đổi Tiếng Phạn trong Phật giáo-Kỳ II: Bốn ngôn ngữ lưu giữ kinh...

Tiếng Phạn trong Phật giáo-Kỳ II: Bốn ngôn ngữ lưu giữ kinh Phật thời xưa

180
0

 

>>Kỳ 1: Ngôn ngữ trong kinh Phật

Theo Giáo sư Franklin Edgerton (1), các văn bản Phật giáo đã được lưu giữ trong ít nhất là 4 ngôn ngữ Indic (2)

1. Phạn Cổ Điển (Classical Sanskrit) : Tiếng Phạn chuẩn tức tiếng Phạn đã được chuẩn hóa bởi Pāṇini, phân biệt với tiếng Phạn trong kinh Vệ Đà là Vedic

2. Pāli, một ngôn ngữ Indic miền Trung Ấn (Middle Indic). Đây là ngôn ngữ chuyển tải phần lớn nhất của tác phẩm Phật giáo mà ngày nay được bảo lưu trong bất kỳ ngôn ngữ Indic nào , đó là ngôn ngữ thiêng liêng của Phật Giáo Miền Nam (Nam truyền, Nam tông, Nguyên thủy, Tiểu thừa). Ngày nay, hầu hết các học giả đều tin rằng Pāli chủ yếu là dựa trên một phương ngữ Middle Indic thuộc miền Tây hay Trung tây.

3. Prakrit Dharmapada : là phương ngữ dựa trên một Middle Indic miền Tây bắc mà Senart trong bài viết về văn bản Dutreuil de Rhins đăng trong Jas. IX.12 (1898), trang 193ff gọi là Prakrit Dharmapada.

4. Buddhist Hybrid Sanskrit : Ngôn ngữ mà Giáo sư Franklin Edgerton goi là Buddhist Hybrid Sanskrit (viết tắt là BHS). Hầu hết các tác phẩm Phật Giáo Bắc Ấn Độ (Bắc truyền, Bắc tông, Đại thừa) được viết bằng BHS. Chẳng hạn, toàn bộ các kinh trong bộ Đại Bát Nhã được viết bằng BHS. Ngôn ngữ nầy chủ yếu dựa trên một phương ngữ Middle Indic cổ xưa mà vẫn chưa xác định rõ, đồng thời chứa nhiều tiếng địa phương của các Middle Indic khác. Nhưng BHS cũng chịu ảnh hưởng sâu xa bởi tiếng Phạn khiến cho nhiều tác phẩm viết bằng BHS vẫn được gọi một cách đơn giản là “tiếng Phạn”.

Giáo sư Franklin Edgerton, trong bài viết “ Tiếng Prakrit Làm Nền Tảng Cho Buddhistic Hybrid Sanskrit (3), cho biết rằng những tác giả Phật giáo sử dụng tiếng Phạn chuẩn hóa ( Tiếng Phạn Cổ điển = Classical Sanskrit, hay Brahmanical Sanskrit, do Pāṇini và các vị tiền bối chuẩn hóa ) chỉ là một số nhỏ. Nhóm nầy dường như là đã được đào tạo trong truyền thống tăng lữ Bà La Môn chính thống (orthodox Brahmanical training) vào thời trẻ nên họ rành tiếng Phạn chuẩn, rồi sau họ mới chuyển qua đạo Phật, chẳng hạn như Aśvaghoṣa (Mã Minh), do đó họ dùng tiếng Phạn chuẩn hóa để viết kinh sách Phật giáo. Đa số tác phẩm Phật giáo viết bằng tiếng Phạn, chính là bằng Buddhist Hybrid Sanskrit . Vì vậy Buddhist Hybrit Sanskrit cũng còn gọi là Tiếng Phạn Phật Giáo (Buddhist Sanskrit) hay Tiếng Phạn Hỗn Hợp (Mixed Sanskrit).

Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch. Sau công trình của Pāṇini thì tiếng Phạn đã trở thành là ngôn ngữ vượt  trội trong văn học và triết học ở Ấn Độ. Cho nên các nhà sư Phật giáo bắt đầu làm thích nghi ngôn ngữ họ đã dùng (tiếng địa phương của họ) với tiếng Phạn trong khi vẫn còn ảnh hưởng của truyền thống ngôn ngữ thoát thai từ một dạng tiếng Prakrit dùng chính thức trong tôn giáo (protocanonical Prakit) của truyền thống truyền khẩu vào thời kỳ đầu của việc trao truyền Phật pháp. Có lẽ chính vì dưới sự ảnh hưởng đa phương ngữ như thế, mà các tác phẩm Phật giáo được viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit đã ra đời.

Trong khi có nhiều lý thuyết khá khác biệt nhau về mối liên hệ của Buddhist Hybrid Sanskrit  với Pāli, thì điều chắc chắn là Pāli thì gần với ngôn ngữ nầy hơn là Sanskrit (4). Theo K.R. Norman, thì Pāli cũng nên được xem như một dạng của Buddhist Hybrid Sanskrit (5). Franklin Edgerton lại cho rằng Pāli về cơ bản là một loại tiếng Prakit (6). Ở những nơi mà BHS khác biệt với Sanskrit thì nó lại gần giống hay y hệt như Pāli. Tuy nhiên, hầu hết những tác phẩm viết bằng BHS hiện còn tới nay thì nguyên thủy được viết bằng BHS chứ không phải được viết lại hay dịch lại từ các tác phẩm đã viết bằng Pāli hay các ngôn ngữ khác (7). 

L.T.H

    Kỳ III: Có Ngôn Ngữ Duy Nhất Ban Đầu Cho Phật Giáo Không? 

Chú thích:

1. Franklin Edgerton, Buddhist Hybrid Sanskrit, vol. I Grammar, Motilal Banarsidass, 1998, tr.1

2. Indic languages tức là các ngôn ngữ thuộc nhóm các ngôn ngữ  Ấn-Iran, là họ con của họ các ngôn ngữ Ấn- Âu. 

3.Kranklin Edgerton, The Prakit Underlying Buddhistic Hybrid Sanskrit, Bulletin of the School of Oriental Studies, Unversity of London, Vol. 8, No. 2/3, tr. 504.

4. Kranklin Edgerton, The Prakit Underlying Buddhistic Hybrid Sanskrit, Bulletin of the School of Oriental Studies, Unversity of London, Vol. 8, No. 2/3, tr. 502.

5. Jagajjyoti, Buddha Jayanti Annual, 1984, tr. 4, được in lại trong K.R. Norman, Collected Papers, vol. III,1992, Pāli Text Society, tr. 37

6. Kranklin Edgerton, The Prakit Underlying Buddhistic Hybrid Sanskrit, Bulletin of the School of Oriental Studies, Unversity of London, Vol. 8, No. 2/3, tr. 503.

7. Kranklin Edgerton, The Prakit Underlying Buddhistic Hybrid Sanskrit, Bulletin of the School of Oriental Studies, Unversity of London, Vol. 8, No. 2/3, tr. 502. 

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here