Thiểu dục tri túc là một phẩm chất không thể thiếu của những người muốn sống theo cung cách “mỗi người vì mọi người”. Điều đáng lưu ý đầu tiên là trong lời khuyên “thiểu dục”, chúng ta phải hiểu rằng những ước muốn tích cực, thiết thực, làm điều tốt để phục vụ cuộc sống vẫn được ca ngợi như hằng ngày chúng ta được nghe qua những trường hợp thành công rực rỡ của nhiều thanh thiếu niên hiếu học vượt khó, của nhiều phụ nữ miệt mài lao động, của nhiều nông dân cần cù thực hiện các dự án nuôi trồng.
Đó là những loại thiểu dục, rõ ràng là ở mức cao hơn một loại ước muốn khác, ước muốn buộc phải có do những nhu cầu tự nhiên như ăn, mặc, ở mà bất cứ một xã hội ổn định nào cũng đã định ra được một mức sống tối thiểu cho người dân. Chính trên mặt bằng của mức tối thiểu đó chúng ta mới bàn đến “thiểu dục”; nói thế để chúng ta khỏi nói tới sự khổ luyện “tam thường bất túc” của nếp sống đạo. Điều đáng nói là lề thói của một số người lạm dụng nhu cầu để tư kỷ tư lợi rất dễ dẫn đến nhiều tiêu cực trong cuộc sống đời thường.
Chung quanh ta, gần như quá dễ dàng nghe thấy nhiều trường hợp người giàu sang dư thừa mọi thứ nhưng lại luôn luôn cau có lo âu. Lắm khi họ đi kiếm người để than thở, đi tìm chỗ để cầu xin. Đêm ngày không ngủ được, lo nghĩ đến trăm mưu ngàn kế để đạt cho được điều đã ước mong. Đó là những trường hợp còn quá nhiều dục vọng mong cầu đủ thứ, có rồi còn ưng có thêm nữa, mong cầu này dù có đạt được lại kéo thêm mong muốn mới, một sinh hai rồi sinh ba, sinh bề bộn tạo nên tâm trạng rối bời. Người tham dục như thế, tham sắc, tham danh, tham lợi, nói chung là bị đắm chìm trong nhục dục ngũ trần, lấy đâu thấy được giây phút hạnh phúc, làm sao an tịnh được tâm hồn để hướng về nẻo thiện, giúp đỡ tha nhân.
Câu 216 Kinh Pháp cú đã ghi:
“Ái dục sanh sầu muộn.
Ái dục sanh lo sợ.
Người đã trọn vẹn dập tắt ái dục
Không còn sầu muộn, càng ít lo sợ”
Dập tắt ái dục là một điều mà trong cuộc sống đời thường mấy ai đạt được. Nhưng bớt ước muốn (thiểu dục) để ít lo sợ, giảm sầu muộn thì không ít người đã làm được bằng cách có nếp sống tri túc, nghĩa là biết đủ. Dù ở đây phải được hiểu là đủ so với hoàn cảnh, với công việc và với trách nhiệm của mỗi người.
Trong nếp sống “thiểu dục tri túc”, mọi ước muốn đều phải phù hợp ngang tầm vóc, ngang nhu cầu tối thiểu thì may ra mới không đưa đến ưu phiền đau khổ. Khi đã có và cái có đã đủ, dù theo ý nghĩ nêu trên thì phải biết đủ (tri túc) và đừng mong cầu gì nữa. Có tri túc mới không có tình cảnh đi quỵ luỵ năn nỉ cầu xin. Có thế mới cảm nhận tự do, mới tránh được điều sỉ nhục. Thế nên người xưa đã để lại lời chỉ dạy:
“Tri túc thường lạc, đa tham tắc ưu. Tri túc giả, bần tiện diệc lạc. Bất tri túc giả, phú quý diệc ưu. Tri túc thường túc, chung thân bất nhục. Tri chỉ thường chỉ, chung thân bất sỉ. Tỷ thượng bất túc, tỷ hạ hữu dư” (Biết đủ vui hoài, tham nhiều lo mãi. Biết đủ nghèo hèn cũng vui. Không biết đủ giàu sang cũng khổ. Biết đủ thường thấy đủ, cả đời không nhục. Biết thôi thường thôi, suốt đời không hổ. So với trên không đủ, so với dưới thì dư). Hiểu là hiểu vậy nhưng sống thiểu dục thì không dễ. Kẻ hám danh, người hám lợi, một số người lại tham đắm sắc dục, quả thật cuộc đời đầy quyến rũ, đầy cạm bẫy, phức tạp khôn lường.
Theo thói thường thì người đời rất muốn người khác nể vì trọng vọng mình, nhiều khi chẳng phải do phẩm chất của mình mà lại do mình quen lớn. Ý muốn đó là tham danh mà đương sự đã quên mất rằng người ta trọng mình có quen lớn chứ không phải trọng mình. Khi không được trọng vọng nể vì, thì sinh ra phiền bực giận hờn, thật là vô lối. Sao lại ưng người ta đối xử mình quá mức mình đang là.
Tri túc về danh thì khỏi chạy vạy nhờ vả mong kiếm cho ra một chức vụ cao hơn mà mình không xứng, thì không hề chọn đường bất chính để kiếm thêm bằng cấp, học vị do công lao học tập của mình, vượt quá trình độ hiểu biết của mình. Có tri túc thì không bao giờ trang trí cái ta hơn cái ta đang là.
Người tham lợi thì lại thấy đương nhiên là của ta khi muốn nhận những món lợi không do mình làm ra. Những ví dụ có thể quá dễ thấy trong xã hội mà báo chí đã hằng ngày vạch ra, đôi khi những tiêu cực đã biến thành thói quen, ngang nhiên ăn mòn dần tính trung thực lẽ ra phải có một cách toàn vẹn trong mọi công việc. Những tiêu cực đó rất thường khi xảy ra cho những kẻ đã có đủ hoặc dư thừa, lần hồi trở thành trầm trọng với những hình thức hối lộ tham nhũng.
Tri túc về lợi thì không chịu hoà mình vào những trường hợp đắc lợi không do mồ hôi nước mắt mình làm ra. Nếp sống đó là một mặt tích cực mà xã hội nào cũng trông chờ. Người xưa đã để lại lời dạy quý giá cho muôn đời:
“Phú dữ quý thị nhân chi sở dục dã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất sử dã. Bần dữ tiện thị nhân chi sở ố dã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất khứ dã. Bất nghĩa nhi phú thả quý ư ngã như phù vân”. (Giàu sang ai chẳng muốn, nhưng có được bằng đường bất chính, ta không thèm. Nghèo hèn ai chẳng ghét, nhưng thoát ra bằng cách gian tà ta không chịu. Giàu sang mà bất nghĩa, ta coi như mây nổi mà thôi).
Tri túc về sắc dục thì không có quan hệ lang chạ thầm kín với người khác phái ngoài vợ hay chồng mình; đây chính là yếu tố căn bản nhất của nếp sống gia đình để bảo vệ hạnh phúc cho chính gia đình mình, cho danh giá mình không phạm đến hạnh phúc và danh giá của kẻ khác. Liên quan vấn đề này, một trong năm giới mà có lẽ mọi người phải noi theo, Đức Phật đã dạy:
“Người ôm lòng ái dục như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bị nạn cháy tay”. (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).
Trong hiện tình dân số thế giới đang càng ngày càng tăng vọt đáng lo ngại, thì vấn đề tri túc này còn phải cần được hiểu rộng thêm ra là phải hạn chế sinh đẻ để góp phần ổn định xã hội. Có con đầu lòng đúng là nền tảng của hạnh phúc gia đình, thứ hạnh phúc có được bằng mồ hôi nước mắt, bằng lo âu đủ thứ và dài ngày. Qua đứa con thứ hai, có lẽ hạnh phúc cũng vậy nhưng công lao nuôi dưỡng hai con đã phức tạp hơn nhiều. Đâu phải chỉ có ăn, có mặc, chỉ lo giữ gìn sức khoẻ cho con không mà thôi. Còn phải dần dần dạy dỗ về tính tình, kể cả lúc đã cho con đi học. Rõ ràng bổn phận làm cha mẹ không dễ. Đến khi có đứa con thứ ba thì nhiều gia đình đã quên dần niềm hạnh phúc ban đầu để chỉ còn theo thói quen nuôi con cho khôn lớn. Lo âu bắt đầu ló dạng xen lẫn niềm vui có con. Lắm lúc phải tự an ủi mình “trời sinh trâu, sinh cỏ” hoặc “năm ngón tay, phải có ngón ngắn ngón dài”, như là những lời biện hộ cho sự bất lực của mình khi không tròn bổn phận nuôi dạy con mà nền giáo dục và y khoa hiện nay đã bảo: Phải dạy con từ khi còn trong bụng mẹ (thai giáo).
Những khi thấy một người quát mắng hay đánh đập con trong cơn thịnh nộ, khi nghe trường hợp cha hoặc mẹ bỏ con để chạy theo những cám dỗ hoặc khi đọc tin có người con xử sự hết tình với cha mẹ, có lẽ không ai là không thấy động lòng và suy nghĩ “thế thì đừng có con là hơn”.
Không thiểu dục tri túc cũng còn có nhiều cách, đôi lúc nhìn qua thấy không có gì đụng chạm đến đời sống xã hội nhưng kỳ thật đã đưa lại những tai hại không nhỏ. Đó là trường hợp không thiểu dục tri túc của những kẻ quen thói la cà quán nhậu nhẹt say sưa, vung phí tiền bạc của gia đình, lại không giữ gìn được sức khoẻ và lắm rượu vào lời ra, lập bè lập nhóm để chém giết lẫn nhau, hoặc vì quá chén gây nên tai nạn khi lái xe dọc đường.
Không thiểu dục tri túc nên mới xuôi theo thị hiếu “mốt” này “mốt” nọ, bất kể trong nhà có tiền hay không. Xem phim Hàn Quốc hay Nhật Bản, thấy nữ diễn viên đi đôi giày lạ hay có bộ y phục đặc biệt, thế là không ít người thuộc phái nữ đua nhau mua sắm giày, quần áo y như vậy; thấy nam diễn viên có kiểu tóc hay hay thì một số thanh niên lại đi đổi đầu tóc cho giống. Tánh đua đòi của con cái vượt ra ngoài nhu cầu thực sự đã làm nhiều bà mẹ buồn phiền và cũng đã rất dễ đẩy tuổi trẻ ra xa cội nguồn dân tộc.
Một cuộc sống không thiểu dục tri túc đã có nhiều tác hại cho cá nhân rồi từ đó cho cả xã hội. Giai do chỉ vì cá nhân không chế ngự được lòng tham, một trong tam độc tham, sân, si đã làm trì trệ bước đường tu thân cho nhiều người và cũng gây nên không biết bao nhiêu là tội phạm trên đời: mua gian bán lận, buôn lậu, mua bán ma tuý, chặt cây phá rừng, mua bán phụ nữ, bắt cóc trẻ em, cướp của giết người, mua bằng bán tước, hối lộ tham nhũng… Hình thức tội phạm càng ngày càng mới, không sao đoán trước được.
Người đời thường bảo lòng tham là vô đáy, nhưng với cung cách thiểu dục tri túc, không còn tư kỷ tư lợi chắc chắn đời người được an lạc, tâm trí được an tịnh, sáng suốt để chu toàn các công việc. Nếu là nhà kinh doanh chẳng hạn thì nguyên tắc tri túc khiến người đó chỉ dám nghĩ đến những dự án phù hợp với những điều kiện đang có của địa phương và hoàn cảnh, kinh phí, tài nguyên, nhân lực… có thế mới dễ thực hiện thành công dự án.
Cuộc sống đang phô diễn dưới thiên hình vạn trạng; trong hoàn cảnh hiện nay của đất nước ta, mọi nỗ lực đều nhắm tới công cuộc xây dựng một cuộc sống phồn vinh trong đó mọi người dân được an cư lạc nghiệp. Nhưng đâu đó còn những hiện tượng tiêu cực đang kìm hãm bước tiến tới đích cao đẹp đó, đang là mối bận tâm chung của xã hội. Trong bối cảnh như thế, có lẽ nếp sống thiểu dục tri túc là một phương thuốc mầu nhiệm qua một câu nói của tiền nhân:
“Nhân thường giảo đắc thái căn tắc bách sự khả tố”
(Người thường nhai được rễ rau thì trăm việc đều làm được)
Một phương thuốc kèm với lý nhân quả chắc chắn sẽ nhanh chóng xóa bớt nhiều tiêu cực hiện nay, tăng đà phát triển cho đất nước.
Châu Trọng Ngô