Năm 1926 thiền sư xuất gia theo hầu thiền sư Giác Tiên ở chùa Trúc Lâm, và được thế độ năm19 tuổi, pháp danh là Tâm Như. Thiền sư được theo học trường Sơn Môn Phật Học ở Tây Thiên. Năm 1937 thiền sư vào Bình Định thụ Đại Giới đàn Tịnh Lâm ở lại học thêm nội điển với thiền sư Phước Huệ chùa Thập Tháp. Năm 1946, thiền sư khởi sự lập chùa Bảo Tràng Huệ Giác tại Hòa Tân (Bình Định), nhưng chiến tranh đã phá hủy công trình này. Về Huế, thiền sư được Sơn Môn Thừa Thiên giao phó trách vụ trú trì chùa Linh Quang trong đại hội ngày 10.4.1946.
Thiền sư được mời làm giảng sư cho hội An Nam Phật Học từ hồi hai mươi tuổi, khi còn là sa di. Đầu năm 1951, ngài làm chánh trị sự Sơn Môn Thừa Thiên, và cuối năm ấy được mời dạy tại Phật học đường Báo Quốc. Năm 1954, ngài được bầu cử làm trị sử trưởng Sơn Môn Tăng Già Trung Việt. Ngày 10.9.1959, trong đại Giáo Hội Tăng Giàtoàn quốc kỳ II, tại chùa Ấn Quang Sài Gòn, ngài được bầu làm trị sự phó Giáo Hội Tăng Già Việt Nam kiêm nhiệm chức vụ ủy viên nghi lễ của Giáo Hội này.
Năm 1964, ngài được mời làm phó đại diện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại miền Vạn Hạnh. Năm 1965, Viện Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn mời ngài vào ban giảng huấn. Năm 1968 ngài được công cử vào chức vụ chánh đại diện Miền Vạn Hạnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kiêm chánh đại diện tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế.
Ngài đã dịch các kinh Giải Thâm Mật và Vô Lượng Thọ, tác phẩm Tân Duy Thức Luận của Thái Hư và viết một số bài đăng trong các tạp chí Viên Âm, Giác Ngộ và Liên Hoa.
Ngài tịch ngày 18-8-1972 tại chùa Linh Quang Huế, thọ 62 tuổi. Sau khi Ngài mất, chùa Linh Quang được đặt dưới sự chăm sóc của sư huynh là thiền sư Mật Hiển, lúc ấy đang làm đặc Ủy Tăng Sự của Tỉnh Giáo Hội Thừa Thiên.
N.N