Trang chủ Thiền môn xứ Huế Giai thoại Thanh đàm về An Thường công chúa

Thanh đàm về An Thường công chúa

239
0

Dân gian nghĩ Bà chúa giàu sang, sao lại không bỏ tiền của ra để xây một cái cửa Tam quan ra vào cho đệ trạch của mình xứng danh với con gái thứ 4 của vua Minh Mạng mà lại chọn mô hình một cái cổng gỗ phía trên lớp ngói quá ư khiêm tốn, thể hiện tính cách thanh cao: công dung ngôn hạnh. Hỏi ra mới biết người sao thì của vậy. Đó là cái cổng truyền thống mà lúc sinh thời từ năm 1841 đến 1891 Bà chúa ưa thích nhất. Từ đó cho đến nay, khuôn viên ấy trở thành di tích AN THƯỜNG CÔNG CHÚA TỪ được du khách phương Tây hiếu kỳ dừng lại thu hình vào ống kính.

Năm 1960, một học sinh xứ Huế hoài niệm nét đẹp dung dị của ngôi nhà vườn vừa là nhà thờ An Thường công chúa đã sáng tác bài tứ tuyệt:

Con đường trưa nắng, gió hiu hiu
Ngây ngất người qua, tiếng sáo diều
Đây chốn An Thường công chúa nghỉ
Lưng chừng khóm trúc dáng liêu xiêu
(Đồng Di Đỗ Hà)

Ngày xưa, nơi công chúa nghỉ có đến 9 ngôi nhà quay mặt ra bờ sông theo cách gọi của ngôn ngữ cung đình: 8 nhà ngơi và một nhà cối để dự trữ lương thực trong kho lẫm và các người phục dịch xay, giả, sàng, dần lúa gạo. Dưới sông sau đệ trạch là bến nước có đến năm chiếc đò nhiều mui che đậu sẵn để đưa Bà chúa và con cháu theo hầu đi vào cung vua, lên sơn lăng, ra quê chồng ở Quảng Trị bằng đường thủy và đi chợ xa gần mua hàng cho vừa ý.

Chợ Cống có tự bao giờ ? Lẽ tất nhiên chợ phải có sau cống thoát nước cho nên mới mang tên CHỢ CỐNG. Các mương nước đều chảy qua cống trước khi đổ ra sông Lục Bình, một khúc sông của sông Thiên Lộc-đổi tên thành Thọ Lộc dưới thời vua Tự Đức sau khi chùa Thiên Mụ đổi tên thành Linh Mụ vào năm 1862 cho thuận lẽ trời đất. Nhớ lại, năm 1841 Bà chúa An Thường hạ giá về nhận đất lập đệ trạch gần bên xưởng đóng thuyền của thủy binh hoàng gia, cư trú theo sắc chỉ của vua Thiệu Trị cho phép Bà chúa cưng chìu xe duyên với Phò mã Đô úy Phan Văn Uýnh, con trai thứ của Hậu quân Đô Thống Chưởng Phủ sự Phan Văn Túy mà quốc sử phiên âm thành Phan Văn Thúy. Thiết nghĩ đó là đầu dây mối dợ cho người đời nay cãi nhau về chùa Túy Vân hay Thúy Vân, với nhiều lý do khác nhau. Chùa có tên chữ là THÁNH DUYÊN ở núi Túy Vân tiền thân là núi Mỹ Am bên cửa biển Tư Hiền. Gia phổ họ Phan ở làng Đạo Đầu, tổng An Lưu, huyện Đăng Xương đã ghi và phiên âm thì làm sao mà “cại lại được”.

Đoán chừng thì cống nước xây sau năm 1814, năm đào sông An Cựu nắng đục mưa trong. Trước đó, chợ Cống có tên là chợ Áo Tơi. Nay dùng áo mưa đủ loại thì ngày xưa dùng tơi kè che nắng đổ lên vai mà yên tâm cày cấy, tơi mang chống mưa lạnh theo lối mưa tạt gió vầy. Cao sang nhất như vua Minh Mạng mà còn mang áo tơi xây bằng lá đọt  và đội nón ra vườn Thiệu Phương trong Đại Nội để xem các phi tần, công chúa trồng rau quả. Trong các mẩu áo tơi ở các làng quê vùng Thuận Hóa, nổi tiếng nhất là tơi chợ Chùa. Chợ này ở đâu ? – Ở làng Hà Tây nằm bên bờ Nam cửa Việt. Tơi bán tại chợ này là một sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng của xứ Thuận Hóa: Quạt Phương Ngạn, tơi Chợ Chùa. Quạt Hoa Ngạn nổi tiếng, đủ loại: quạt tre, quạt lụi, quạt tán đinh đồng, đinh bạc  quạt nhiều nan lợp bằng giấy dó hoặc bằng lụa… Vì kỵ húy chữ “Hoa”, tên mẹ vua Thiệu Trị mà đổi tên làng Hoa Ngạn ra Phương Ngạn. Chuyện tơi, chuyện quạt lại dính liền với chuyện hai chùa Diệu Đế và Báo Quốc: Quảng Trị Trung Kiên, Thừa Thiên Dạ Lê. Trung Kiên và Dạ Lê là hai làng phát sinh nhiều bậc danh tăng của xứ Thuận Hóa. Làng Phương Ngạn sát bên làng Đâu Kênh, làng Bích Khê (tên cũ Hồng Khê), đối chênh qua sông Thạch Hãn là thôn Trung Kiên. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã từng ngự giá ở làng Đâu Kênh, huyện Võ Xương thăm chùa Thiên Tân và được dân làng dâng quạt; chúa ngự để biển chùa bằng chữ vàng, tặng tượng Phật và đồ thờ quý giá. Quạt Phương Ngạn là đặc sản của tỉnh Quảng Trị đã từng được chọn làm sản phẩm dự hội chợ Đông Dương thời Pháp thuộc vào đầu thế kỷ 20, khi mà ngành du lịch Việt Nam bước đầu phát triển. Thời ấy, con vua cháu chúa ở chốn cung cấm cảm thấy ngỡ ngàng trước những biến chuyển buổi giao thời, thay cũ đổi mới của làn sóng Âu hóa.

An Thường Công chúa sinh ngày 13 tháng 6 năm Đinh Sửu (26/ 7/ 1817) là chị khác mẹ với Tùng Thiện vương và Tuy Lý vương, cùng mẹ với Hàm Thuận công Nguyễn Phúc Miên Thủ, con trai thứ 9 của vua Minh Mạng; mẹ là Mỹ nhân Nguyễn Thị Bân, người huyện Minh Linh, tỉnh Quảng Trị. Về sau chia huyện Minh Linh, và lập huyện mới Địa Linh, đổi thành Gio Linh vào năm 1886. Quê ngoại của bà công chúa thuộc huyện Gio Linh, nơi có sản vật sắn dây, khoai mài, môn sọ, môn chúm nổi tiếng dùng làm phẩm vật tiến cung vua.

Lúc còn nhỏ tuổi, hoàng nữ có tên là Tam Xuân, lớn lên được vua cha Minh Mạng, dựa vào bản chất và tính khí của con gái mình mà đặt tên là Nguyễn Phúc Lương Đức.

Về tiểu sử của Bà chúa là người con chí hiếu và mẫu mực thì xưa nay ngoài quốc sử đã ghi chép còn có thêm tạp chí Tri Tân số 113 ra ngày 23.9.1943  với bài viết của học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ cũng viết trong tạp chí ấy nói về lòng hiếu thảo của An Thường công chúa và vào thập niên 60 thế kỷ 20, nhà văn Trịnh Văn Thanh chọn dùng lại trong cuốn từ điển Việt Nam danh nhân lịch sử, tập II.

Năm Mậu Thân 1848, Đức bà được tôn phong là AN THƯỜNG CÔNG CHÚA. An Thường là thuật ngữ Phật học vừa là tên một địa danh làng xã của tỉnh Bắc Ninh, nơi có nhiều người đẹp thông tuệ, nết na và thùy mỵ. Chuyện tình duyên của Bà chúa có chút oái ăm mà hơn một năm sau ngày cưới long trọng ở Tôn Nhân phủ mới rò rĩ xuất phát từ dư luận quần chúng.

Nhờ đọc PHAN GIA THẾ PHỔ và lắng nghe chuyện kể kiểu Liêu Trai chí dị mới biết: Đường vào tình yêu của Đức bà muôn vàn ngõ ngách. Con trai thứ của Hậu quân Đô Thống Chưởng Phủ sự là PHAN VĂN TÚY có trước một đời vợ ở làng quê Đạo Đầu, tổng An Lưu, huyện Đăng Xương (Triệu Phong ngày nay). Ngày xưa ở xứ đồng ruộng phì nhiêu, có lệ tảo hôn. Cha mẹ thường sớm cưới vợ cho con trai và lại chọn những cô thôn nữ lớn tuổi đảm đang việc nhà. Quan Hậu quân trong một lần bệ kiến vua Minh Mạng, nhà vua ướm hỏi: khanh có con trai nào đến tuổi trưởng thành mà chưa lập gia thất không ? Quan Đô Thống bẩm tâu Hoàng thượng: Bẩm dạ có, nhưng con nhà võ có nét chân phương thô thiển, xin Bệ hạ rũ lòng thương. Lời tâu khá xẳng xái như thể hiện đáp ứng được yêu cầu của người hỏi chuyện. Quan Hậu quân Đô Thống nghĩ lại đã lỡ lời thì khó lòng thu lại, sợ mang tội bất kính. Phụng mệnh thì phải lo thu tóm việc nhà cho ổn thỏa. Hoàng thượng ướm hỏi tức là muốn kết tình thông gia, bằng lòng gã công chúa Lương Đức cho con trai của Đại thần gốc quan võ là Phan Văn Túy. Ngoài những chiến công hiển hách được khắc tên vào bia Võ công ở Võ miếu, Hậu quân Đông Thống còn có công trạng lớn lao trong việc đào sông Vĩnh Định thông đường giao lưu mở từ kinh kỳ ra đến  tỉnh Quảng Bình. Nhờ vậy mà nhà vua ngự giá ra Thăng Long bằng đường thủy rất tiện lợi, còn dân chúng thì đi lại dễ dàng bằng những chuyến đò dọc từ kinh đô Huế ra các tỉnh thành phía Bắc.

Đã trót buông câu đã lỡ thì phải lần. Vào thời bấy giờ quan Đô Thống đầy quyền lực trong tay, giữ chức Phó Tổng trấn Bắc Thành như một Phó vương. Sở dĩ nhà vua không lập chức Tổng trấn nhằm ngăn ngừa hậu hoạn như đời vua trước mà Tiền quân Nguyễn Văn Thành đã từng là nạn nhân vì có định kiến với Tả quân Lê Văn Duyệt xuất thân là hoạn quan.

 Sau đó, quan Phó Tổng trấn trở về quê nhà thu xếp đưa con dâu và cháu nội ra Bắc Hà “tỵ nạn”, hủy bỏ việc hôn phối của con trai mình, bằng con đường “ly dị” khác nào chuyện hôn nhân giả tạo ngày nay để tiện việc xuất cảnh ra nước ngoài vậy.

 Mọi việc hoàn thành như dự tính. Ngày dẫn cưới đã đến: cành vàng lá ngọc xe duyên với bách tánh theo nhạc tấu bài “loan phụng hòa minh” đưa nàng công chúa ra miền Ô Châu ác địa bái yết gia đường hương hỏa. Bà chúa chẳng hề nghe dư luận gì xôn nao ở chốn thôn dã. Bài bản sắp xếp có hương lý, trưởng lão tín cẩn đồng tình ủng hộ. Nếu có ai “bật mí” thì xem như nhẹ tội: Phò mã đã có con riêng và nay đã ly dị vợ nên vẫn độc thân chưa vợ. Lợi ích chung cho làng thì ai mà chẳng ưa: trồng tre cậy một phía, trồng mía cậy một hàng. Cái lối bọc lót, che chắn ấy thì người dân quê khá thành sỏi, tùy thời mà ứng biến để bảo vệ làng xã sống đời bình an.

Về sau nhà vua và An Thường công chúa biết chuyện xưa chăng lành nhưng vì nễ tình và chuyện đã thành nên đành lờ đi: sự thành bất thuyết. An Thường công chúa có tấm lòng cao thượng, rộng lượng không hề phiền trách mà lại coi con chồng ở xa ngàn dặm như con của mình vậy. Chính vì thế mà sau này đã hình thành một nhánh của chi tộc họ Phan ở Bắc Hà, có danh có phận nở mặt với đời.

Gia phong nhà chồng được Bà chúa hun đúc ngày một rạng rỡ như ý nghĩa của hai vế câu đối bằng chữ Hán treo ở nhà thờ An Thường công chúa:

Tích thiện bội căn miên thế trạch
Truyền kinh giáo tử hoán nhân văn

Tạm dịch:

Tu nhơn tích đức gia cảnh đẹp
Giữ ngọc gìn vàng lẽ thường an

Ngày nay, đọc chính sử thời xưa nhiều khi không nhớ hết, thỉnh thoảng nghe chuyện dã sử bổ sung thêm để nhớ biết chuyện “thiệt lục” thuở xa xăm, đã tan loảng và hòa điệu với dã sử hoặc bổ sung cho quốc sử. Làng nước, họ tộc cũng có chính sử và dã sử. Gần chết rồi, đức ông chồng mới nói cho vợ con nghe chuyện thật trước giờ ly biệt cõi trần: chuyện ông ông biết, chuyện bà bà hay. Chuyện thế gian đúng 100% là như rứa đó !

Bà chúa thông tuệ và đạo hạnh, cho nên dễ dàng nhận ra lẽ vô thường. Bà tu Tiên, tu Phật, tu theo đạo nhà và thậm chí tu ở chợ Cống, chợ Được, chợ Xước Dũ, chợ Đông Ba là có thật. Bà chúa An Thường có chút của hồi môn, có quà tặng của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Kiến Phúc, Đồng Khánh và Thành Thái. Nhưng tiền vào rồi lại đội nón ra đi. Bà lo việc nhà chồng, việc hầu kỵ ở sơn lăng và triều miếu, thậm chí ban phát lại cho cháu con, cho cư dân quanh vùng chợ Cống khó nghèo, tật bệnh và cô quả. Đến nổi đất vườn cũng nhường lại cho em trai là Hoàng tử Miên Thủ để chị em ở gần nhau dễ dàng bao bọc che chỡ cho nhau. Bà đi mua hàng không bao giờ ép giá tại các chợ ở phủ Thừa Thiên và tỉnh Quảng Trị. Con cháu bên chồng ở làng Đạo Đầu vào thăm Đức bà đều được tặng quà và lộ phí đi đường; bà con bên ngoại ở huyện Gio Linh cũng hưởng được ân sủng quý giá ấy.

Cuối đời, Đức bà tu Phật, có đạo hiệu THANH TỪ nhưng chắc chắn là đi chùa TƯỜNG VÂN cùng với ngài Tuy Lý vương đã quy y với Tổ TỊNH HẠNH. Phủ Tuy Lý là phủ đệ duy nhất ở Huế vào thời xưa có đến hai ngôi chùa thân thuộc. Chùa Phước Huệ ở gần bên phủ Tuy Lý và chùa Thiên Hòa ở làng Dương Xuân thượng.

Di sản của Đức bà để lại ở  An Thường Công chúa từ là tượng ĐỨC QUAN THẾ ÂM bằng thủy tinh trong suốt đặt trong khám thờ.

Bà mất ngày 6 tháng 4 năm Tân Mão, (13.5.1891) thọ 75 tuổi ta. Vua Thành Thái  và Phụ chính Đại thần kiêm quản Tả Tôn chính Tôn Nhân phủ là Tuy Lý Vương vô cùng thương tiếc.

Khâm Thiên giám, phủ Thừa Thiên, Tôn Nhân phủ và gia đình định ngày lành tháng tốt để chung lo việc tống táng. Chọn cho ra ngày lành để làm lễ đưa tang và điều cực kỳ nan giải. Cuối cùng đành phải chọn phương án quàn linh cữu tại khuôn viên hơn một năm. Đến đầu tháng giêng năm Quý Tỵ, 1893 mới cử hành lễ đưa tang. Chuyện có thật và đã có bút tích của con cháu ghi lại.

 Thừa hưởng ân đức cao dày của ngài Đô Thống Chưởng Phủ sự, con cháu của Đức bà đã sống đúng theo quan niệm Cư Nho Mộ Thích như ý nghĩa câu đối mà nhà văn Trần Thanh Mại viết nhân lễ viếng anh rễ của mình là cụ Phan Văn Dư, cháu gọi Đức bà bằng bà nội mất vào ngày 26 tháng 7 năm Kỹ Mão (9.9.1939) mà học giả Phan Văn Dật đã ghi chép lại:

Hỷ xả suốt một đời, chẳng tụng niệm, chẳng trai chay
Thuyền đạo cũng đưa về cõi Phật;
Gia đình gồm mấy họ, nào nấng nuôi, nào giúp đỡ
Quả lê không thẹn với chàng Trương.

Đôi dòng ghi lại vài mẫu chuyện chọn lọc để nhớ mãi về An Thường công chúa, nhân ngày húy kỵ thứ 118 của Đức bà danh giá, xuất thân từ chốn cung đình và trưởng thành giữa lòng dân gian. Trãi qua biết bao thăng trầm, nhưng hạnh phúc thay cuối đời Đức bà biết tìm đến chốn Thiền môn và để lại tiếng thơm quý giá hai mặt ĐẠO-ĐỜI hòa quyện, lưu luyến gió Túy Vân, trăng Thiên Mụ và còn cả núi Mai sông Hãn của miền Thuận Hóa.

 N.T 

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here