Trang chủ Nghiên cứu – Trao đổi Tây Phương Đã Tiếp Nhận Đạo Phật Như Thế Nào? (Phần 1)

Tây Phương Đã Tiếp Nhận Đạo Phật Như Thế Nào? (Phần 1)

131
0

Từ thân thế mù mờ…

Hiện nay Phật giáo được xem là tôn giáo phát triển nhanh nhứt ở Tây phương và theo những thống kê gần nhất, số người hành trì theo đạo Phật trên toàn thế giới có thể vượt qua cả con số tín đồ Ky Tô. Quan trọng nhất là đạo Phật được nhiều học giả nghiên cứu tôn giáo công nhận là tôn giáo hoà bình vĩ đại nhất của nhân loại.

Các tác phẩm tố cáo lòng cuồng tín và bạo hành của các tôn giáo lớn kết luận là nhờ không có giáo điều và lòng tin mù quáng nên đạo Phật không dính líu đến các cuộc chiến cục bộ vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 (1). Tuy nhiên trước khi được Tây Phương chấp nhận như một triết lý và tôn giáo, đạo Phật đã phải trãi qua những cơn sóng cuồng nộ, không phải chỉ từ các giáo sĩ dòng Tên trong phái bộ truyền giáo hải ngoại của Thiên Chúa, một số các triết gia và học giả nghiên cứu tôn giáo đã gieo mối nghi ngờ và lên tiếng cảnh báo dân chúng Tây phương về cơn ác mộng ‘hư vô’ của một tôn giáo ‘thờ phụng hình tượng mê tín’ từ phương Đông.

Từ ngữ Buddhism (Bouddhisme) chỉ được Tây phương dùng để gọi Phật giáo sau năm 1820 sau khi tác phẩm Recherche sur Budou ou Bouddu (sic) của Michel-Jean-Francois Ozeray ra đời vào năm 1817. Ozeray không biết nên diễn âm tên của Đức Phật một ‘h’ hay hai ‘h’, có ‘o’ hay không có ‘o’! Các nhà ‘nghiên cứu’ Burnouf (được xem là học giả nghiên cứu Phật giáo đầu tiên ở Pháp) và Lassen gọi là ‘Bouddaism’. Các triết gia Đức như Schopenhauer gọi là ‘Buddhaismus’, Hegel gọi là ‘Buddhismus’. Kể từ sau tác phẩm The History and Doctrine of Buddhism của Edward Upham (1829), tên Buddhism này mới trở thành tên tiêu chuẩn. Địa chỉ, căn cước và thời đại của Đức Phật cũng lờ mờ. Dù Hoàng đế Asoka (A Dục) đã từng gởi nhiều phái đoàn truyền giáo qua tận Hy Lạp dưới thời Alexandre, các tăng sĩ được gọi với cái tên “Samaneans”, có lẽ phiên âm tiếng Phạn tương đương với chữ Sa Môn. Sự giao lưu văn hóa giữa Hy lạp và Ấn Độ xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ Tư B.C khi Alexandre xâm chiếm quốc gia này. Alexandre không phải là người võ biền tầm thường. Ông là học trò của Aristotle và các nhà trí thức và nghệ nhân tùy tùng chắc đã mang về Hy Lạp nhiều di vật văn hóa Ấn. Vào thế kỷ thứ Ba trước công nguyên, Hoàng đế A Dục đã thành lập một bộ Tôn giáo và gởi nhiều phái đoàn truyền giáo dưới 5 triều đình Hy Lạp mà tên tuổi con ghi đầy đủ. Gần đây người ta mới khám phá tại Afghanistan một vài bia đá của Hoàng Đế A Dục viết bằng tiếng Hy Lạp và Aramaic, ngôn ngữ của Jesus. Trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo vấn đáp (The Milanda-panha) vua Milanda được nhận diện là vua Menandros của Hy Lạp gởi tới cai trị vùng Tây Bắc Ấn vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. (2) Vài trăm năm đầu tăng già không tôn thờ tượng Phật và hình tượng đức Phật có nhiều khả năng bị ảnh hưởng của mỹ thuật Hy Lạp! Tuy nhiên hiện nay không có tài liệu nào cho thấy vết tích của sự hiện diện của Phật giáo ở Hy Lạp, có thể vì dấu bụi thời gian mà cũng có thể do những hủy hoại cố ý khi Ky Tô khi được Constantine biến tôn giáo này thành quốc giáo. Sách vỡ ngoại giáo Pagan không sống sót được huống gì là tài liệu liên quan đến Phật Giáo.

Đến ông ‘mọi đen’

Đến thế kỷ 16 khi dòng Tên thành lập những phái bộ truyền giáo hải ngoại, các linh mục Thiên Chúa có nhắc một các mơ hồ một tôn giáo ‘Fo’ ở Trung Quốc, Xaca ở Nhật (có lẽ âm chữ Buddha). Thái độ hung hãn của các linh mục truyền giáo đối với Phật Giáo ở Nhật phản ảnh qua lá thư của Francis Xavier viết cho người sáng lập dòng Tên, Ignatius Loyola, gọi các tăng sĩ Phật giáo là ‘những con heo rừng’ và tin tưởng lạc quan là với sự ‘chăm sóc’ của các linh mục dòng Tên, dân chúng Nhật và Trung Quốc sẽ bỏ tôn giáo thờ ‘hình tượng mê tín’ để cải đạo theo Jesus, người cứu rỗi của cả nhân loại’. (3)

Đại học Thiên Chúa Louvain, nơi đã đào tạo một số trí thức Thiên Chúa Việt Nam, cón lưu trữ một ‘báo cáo lưu hành nội bộ’ của các nhà truyền giáo viết bằng La Tinh, đã được dịch ra tiếng Đức, Pháp, Tây Ban Nha và Ý. Tuy nhiên các bản báo cáo này không chủ ý nghiên cứu Phật Giáo mà chỉ nhằm tìm cách để cải đạo tập thể như trong báo cáo của Francis Xavier nhằm cho thấy ‘nhu cầu khẩn cấp’ để cải đạo những người thờ ‘thần tượng mê tín’. Tuy thế cũng có vài báo cáo của một số linh mục truyền giáo chứa nhiều chi tiết khá trung thực vẫn còn lưu trữ trong các dòng tu đặc biệt của Vatican và hiện vẫn chưa được giải mật phổ biến.

Các giáo sĩ dòng Tên, như De Guignes, ‘lên án’ Đức Phật đã bỏ vợ con, gia đình để ôm lấy một tôn giáo hủy diệt có tên là Samanean (sic). Các tín đồ Phật giáo muốn đi tìm điều gì? ‘Đi tìm sự hủy diệt của chính mình trong hư vô’ (4). Giáo sĩ dòng tên này cũng không quên phê phán là đạo Phật vô thần.

Một nhà truyền giáo khác, Ozanam, trong Essai sur le Bouddhisme, nhắc đến sự chống đối những nổ lực cải đạo tập thể dân chúng ở các nước như Nhật, Trung Quốc và Việt Nam ‘trong vòng 300 năm tôn giáo này đã chống đối lại nổ lực cải đạo của phái đoàn truyền giáo. Bằng cách dùng bạo lực và tra tấn, các tín đồ các tôn giáo này đã tự bảo vệ một cách vô vọng. Đó là một tôn giáo đã đặt thánh giá dưới chân của những thương gia tại các hải cảng Nhật, đã ra dụ cấm đạo ở các thành phố ở Tonkin và Trung Quốc, và trong vòng 3 năm, đã thủ tiêu 3 giám mục và 20 linh mục, nhốt các người tân tòng trong các cũi sắt cho đến chết. Cái tôn giáo đó tự gọi là Phật Giáo.’ (5) Thì ra không phải chỉ có Việt Nam cấm truyền đạo vì muốn bế quan toả cảng, cà Nhật và Trung Quốc cũng cấm đạo vì biết các ‘cố đạo’ là những tên lính tiên phong’ trong việc mở rộng nước Chúa.

Không có lời kết án hạ tiện nào mà Ozanam không dùng: ma quỉ (diabolical), thú vật (bestial), hung tàn (cruel), sát nhân (murderous), vô luân (licentious) sa đọa (debauched) , điên rồ (madness) tàn ác hơn hoàng đế Neron, Commodus và Heliogabalus”. Ozaman so sánh Đức Phật với Satan và xem đạo Phật là một đạo nguy hiểm nhất!

đến cơn ác mộng đe dọa Âu Châu

Sau khi khám phá ra ‘bản chất’ của Phật giáo là ‘hư vô’ và ‘hủy diệt’, các nhà truyền giáo Thiên Chúa càng thấy thêm nhu cầu cấp bách ‘cải đạo’ dân chúng ở Đông Á và Đông Nam Á đang theo một tôn giáo đe dọa ‘thông minh bình thường’ và nhất là đe dọa ‘giáo hội’. Một giáo sư tại đại học Thiên Chúa Louvaine, Felix Nève, dựa trên thông tin từ tác phẩm của một nhà nghiên cứu Burnouf, tuyên bố sứ mạng chinh phục ‘linh hồn’ Đông Phương là chương trình thiên khải và nhiệm vụ của tín đồ Ky Tô. (6) Luận văn của Felix Nève được xuất bản năm 1846, hơn nửa thế kỷ sau cách mạng Pháp! Vài mươi năm sau Pháp nổ tiếng súng đầu tiên ở Đà Nẵng để mở đường cho giáo hội tiện việc rao giảng ‘tin mừng’ cho dân Việt Nam.

Ít nhất cho đến thể kỷ 19 Phật giáo vẫn còn được xem như là tôn giáo thời hồng hoang ‘sơ khai’, nghĩa là có mặt trước cả thời Vệ Đà và Bà La Môn! Phật tử hay nói đến 32 ‘tướng tốt’ của Đức Phật, nhưng một số các học giả Tây phương khi nhìn hình tượng Đức Phật, phân vân về căn cước và quê hương của Đức Phật. Hình tượng Đức Phật da đen, môi dầy và tóc quăn rối bù thành từng lọn nhỏ, giống như các thanh thiếu niên ngày nay để tóc kinky, nên nhà ‘đông phương học’ William Jones cho rằng có thể Đức Phật là người Ethiopian hơn là người Ấn. Captain Robert Percival nói một cách chắc nịt là tóc của Đức Phật dày, đen, quăn rối bù giống như một người gốc Phi Châu.(4) Alexandre de Rhodes trong phép giảng 8 ngày, gọi đức Phật là ‘thằng mọi đen” chắc cũng lấy thông tin từ nguồn này ! Ngôn ngữ các ‘cố đạo’ đối với dân của các nước thuộc địa cũng đều giống nhau: khinh miệt, trịch thượng và thiếu ‘văn hóa’. Mãi đến năm 1850, một trong những nhà nghiên cứu Phật học nghiêm túc đầu tiên của Pháp, Eugene Burnouf, mới cải chánh: tóc của đức Phật không phải rối bù, mà chỉ quăn, nên không phải là hậu duệ của người Phi Châu!

Những lập luận lẩm cẩm kéo dài mãi đến năm 1817 Đức Phật mới được đánh giá là một ‘triết giá’ đáng lưu ý, một hiền giả đi tìm con đường hạnh phúc cho nhân loại. Và hiền giả này không phải là thần thánh mà đơn giản chỉ là một con người. Khi gọi Đức Phật là một triết gia, Ozeray chỉ muốn nói tới hình ảnh của minh triết Hy Lạp, và là những người dùng lý trí chống lại giáo điều, thực hành con đường làm chủ bản thân để thực hiện mục tiêu đạo đức. Độc giả còn nhớ lời trăn trối của Pascal: mong ước một ngày nào thần linh (tôn giáo, giáo điều) được thay thế bởi các triết gia. Ozeray cũng bắt đầu đề cập đến thân thế của Đức Phật, tuy chưa chính xác, nhưng cũng trình bày được những nét chính về con người và thời đại Đức Phật: Sinh ở Ceylon (thực ra ở Nepal) vào năm 1029 BC (thực ra sau đó hơn nửa thế kỷ). Ozeray cũng đề cập đến 5 giới cấm và thái độ chống đối của Đức Phật tế tự ‘hy sinh’ các thú vật của Ấn Giáo, cũng như chống đối chế độ đẵng cấp cha truyền con nối bất công và vô nhân ở Ấn Độ. Ozeray con ước đoán con số tín đồ ở các nước theo Phật giáo Nam Phương và Bắc phương có hơn trăm triệu, nhiều hơn cả tín đồ Ky Tô. Không ai biết ông dựa vào con số thống kê khả tín nào, nhưng ông đã đặt Phật Giáo ít nhất ngang hàng với Do Thái và Ky Tô ở Tây phương. Những điều Ozeray đề cập ngày nay không có gí mới lạ, tuy nhiên đó là một bước đột phá so với kiến thức về Phật giáo thời bấy giờ.

Ngoài thái độ thù nghịch của các nhà truyền giáo, các nhà nghiên cứu tôn giáo và ngôn ngữ Đông Phương, các triết gia hàng đầu ở Tây Phương như Hegel và Nietzsche, cũng xem Phật giáo là mối đe dọa cho tư tưởng và tôn giáo. Những công trình giới thiệu Phật giáo cũng bắt đầu nghiêm túc hơn, nhưng vì nguồn tài liệu thiếu thốn, vì mối ám ảnh là thời đại hư vô có thể sắp sửa tràn ngập văn hóa và tư tưởng Tây phương, Phật giáo trở thành mối đe dọa, một cơn ác mộng mà Tây phương phải đối phó. Năm 1829 tờ nhật báo Le Globe của Pháp đăng một bài báo mở đầu cho nhiều thập niên trong đó các công trình nghiên cứu cố gắng trả lời những câu hỏi như, mối liên hệ giữa Phật giáo và Ấn giáo, nguyên nhân Phật giáo biến mất không còn để lại dấu vết đáng kể gì ở Ấn và tại sao Phật giáo lại truyền sang các nước làng giềng, giáo lý căn bản và ngôn ngữ truyền thừa, đức Phật có phải là hóa thân của Vishnu như Ấn giáo cố tình ‘xuyên tạc’ hay không.

Nhóm học giả Pháp, do Eugene Burnouf dẫn đầu cùng với Victor Cousin, được xem là những người khai sáng các công trình về Phật giáo ở Âu Châu. Burnouf nghiên cứu từ nguồn Pali và sau đó, Sanskrit, và cả Zen. Ông được bầu làm hội viên Academie des Inscriptions et Belles-Lettres vào năm mới 31 tuổi. Năm 1844 ông xuất bản Introduction à l’histoire du Buddhisme Indien vànhóm triết gia Đức như Schopenhauer, Hegel và Nietzsche chịu ảnh hưởng của tác phẩm này rất nhiều. Chính Burnouf là người đầu tiên báo động Phật giáo là tôn giáo ‘hư vô’, ‘con ma hư vô’, một tôn giáo chủ trương ‘hủy diệt hoàn toàn’. Bournouf cho rằng Phật giáo chủ trương vô thần, không chấp nhận một thượng đế sáng tạo, trong khi Ky Tô bảo vệ ‘linh hồn’ bất tử. Vì là một học giả, không thù nghịch và thiên kiến đối với Phật giáo như các nhà truyền giáo Ky tô, ngôn ngữ của Burnouf rất cẩn trọng. Ông nói, sau khi nghiên cứu ý niệm Nát Bàn, ông nghĩ là Đức Phật Shakya (Đức Phật đến bây giờ mới được gọi đúng tên) cho rằng hủy diệt là nguyên tắc suy tư đưa con người đến chỗ an lạc tối thượng và Phật giáo là một tôn giáo ‘hư vô’. Burnouf dùng ẩn dụ của Đức Phật giải thích sự chấm dứt sinh mạng con người qua hình ảnh của cây nến sắp tắt.

Nhân vật thứ hai có ảnh hưởng đến các triết gia và các người nghiên cứu Đông Phương trong nửa thế kỷ sau là Victor Cousin. Thoạt đầu Cousin cho Ấn Độ chưa có triết lý, mà chỉ là mớ tư tưởng hỗn độn giữa thần thoại và tôn giáo, chỉ là thứ triết lý thời khai sinh. Những chỉ một thời gian ngắn sau Cousin đổi thái độ, xem lịch sử triết học Ấn độ phản ảnh lịch sử rút ngắn của lịch sử triết lý (Tây phương). Cousin than phiền là vào năm 1829, chưa có một kinh điển hay sách vở nào từ tiếng Phạn hay Pali được dịch ra tiếng Pháp. Tuy nhiên Cousin cũng giữ lập trường lúc đầu cho Phật giáo chủ trương hư vô. Một học trò của Cousin là Saint Hilaire, chuyên nghiên cứu về các tài liệu từ tiếng Sanskrit, cũng xác nhận mối lo sợ về ‘mối đe dọa’ của Phật Giáo, một tôn giáo xem hư vô là mục tiêu và ‘cứu rỗi’ cuối cùng.

Học trò của Cousin, Barthelemy Saint-Hilaire không có được ngôn ngữ hòa nhã như thầy và gán cho Phật giáo đủ mọi nhãn hiệu, tôi xin giữ nguyên văn trong ngoặc vì sợ không đủ chữ để phiên dịch: tồi tệ và phi lý (deplorable and absurd), ghê tởm (hideous), xây dựng trên nền tảng của những nguyên lý buồn thảm (sad principles), đầy rẫy những sai lầm quái dị (monstrous errors), ý nghĩa ảm đạm (gloomy meanings) dẫn đến đạo đức tự sát (moral suicide). Nói tóm lại một tôn giáo đáng ghê tởm nhất (most revolting of religion). (7) Ngay cả các giáo sĩ dòng tên cũng chào thua nghệ thuật phê bình kiểu này!

Vào hậu bán thế kỷ 19 một số học giả như Sylvain Levi bắt đầu dịch các kinh đại thừa từ Sanskrit. Một số nhà nghiên cứu nổi tiếng khác như Paul Demeville, La Valle de Poussin dịch A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Abhidharma-Kosa) của Vasubandu (Thế Thân- Lê Mạnh Thát làm luận án tiến sĩ về bộ luận này), Eteinne Lamotte, bộ tự điển của học giả Đan Mạch V. Trenckner, học giả Hà LanJ.W.de Jong…Ở Nga một nhóm học giả đã cổ động nghiên cứu có tánh cách khoa học về Phật Giáo, nổi tiếng nhất là Scherbatsky với bộ Buddhist Logic.

Đến nhà minh triết & giáo chủ tôn giáo

Từ một nhân vật mù mờ về căn cước. quốc tịch và thời đại, bỗng nhiên Đức Phật được tôn kính như một triết gia. Trong khi Schopenhauer xem triết lý bi quan của mình có vài điểm tương đồng với Phật giáo, hai triết gia Đức khác là Hegel và Nietzsche thấp thoáng thấy Phật giáo là một mối đe dọa mới ‘Phật giáo xem hư vô là nguyên tắc bắt đầu cho tất cả, và mục tiêu cuối cùng của tất cả’ (9) (Hegel, Encyclopédie des sciences philosophics en abrége, 1827, dẫn chứng lại từ Droit). Trong các khóa giảng từ năm 1827 đến 1831 về nghệ thuật, tôn giáo và lịch sử thế giới, Hegel bắt đầu có thông tin chính xác hơn về Đức Phật, như việc xác nhận Đức Phật là một nhân vật lịch sử, thế nhưng Hegel bỗng lớn tiếng cảnh báo về cơn ác mộng ‘hư vô’. Theo Hegel hình ảnh an nhiên của Đức Phật, ngồi tham thiền kiết già phản ảnh cho một thái độ trở về với chính mình ‘từ hư vô mà đến, về hư vô mà đi’. Mục đích tối hậu của Phật giáo là một quá trình hủy hoại (vernichtung), hoà nhập ‘linh hồn’ trong cõi Niết Bàn tĩnh mặc. Hình ảnh này có lẽ đúng với Ấn Giáo hơn là Phật giáo vì Phật giáo không có ý niệm ‘linh hồn’, không có tiểu ngã cũng như không có Đại ngã. Đó là những gì mà Hegel hiểu về Niết Bàn và xem ‘cõi Niết Bàn’ tương đương với hư vô.

Kiến thức về Phật giáo vào giữa thế kỷ 19 tương đối nghiêm túc, đáng tiếc một triết gia tầm cở như Hegel vẫn đồng hóa nát bàn với hư vô tuy ngôn ngữ phê phán của Hegel vẫn giữ được nét trong sáng của biện chứng triết học. Nếu dẫn chứng ngoài ngữ cảnh, người ta có thể hiểu kết luận của Hegel về Phật giáo là ‘một tôn giáo hư vô, hủy diệt, vô thần và thách thức Thượng Đế lẫn con người’. Giả sử như Hegel đọc được Trung Quán Luận của Long Thọ hay Tâm Kinh, ông có thể thay đổi cái nhìn về Phật giáo không? Về cuối đời khi có thêm nhiều tài liệu chính xác hơn, Hegel tỏ ra hòa dịu hơn và kết luận trong các khóa giảng là đạo Phật ‘hoàn toàn xứng đáng được gọi là Triết Lý’.(10) Thái độ cao ngạo có thể phản ảnh tâm lý ngấm ngầm xem thường văn hoá và triết lý đông phương nói chung, tự xem là chỉ có minh triết Hy Lạp mới là ‘quê nhà’ và trung tâm văn hóa của Tây Phương, Trái Tim của Đức.

Các triết gia Đức Frankfurt

Mối liên hệ giữa tư tưởng Ấn Độ nói chung, và Phật giáo nói riêng, và các triết gia Frankfurt mật thiết hơn các nhà nghiên cứu từ trước. Schopenhauer, thường được xem là Phật tử đầu tiên ở Tây Phương. Schopenhauer mua được một tượng Phật mạ vàng từ Tây Tạng chưng bày trong phòng làm việc. Schopenhauer không nhận mình chịu ảnh hưởng của Phật và chỉ xem lý thuyết của mình và tư tưởng của Đức Phật có nhiều điểm tương đồng. Schopenhauer rất trân quí pho tượng đồng có nụ cười thanh thoát, ngồi trên hoa sen và sung sướng khoe như trẻ con, cho tượng của mình chính hiệu Tây tạng, trong khi một người bạn khác chỉ có pho tượng gỗ từ Trung Quốc! Schopenhauer cũng tiết lộ là ông thường trì chú ‘Om, Mani, Padme, Hum!’

Trong phụ bản tác phẩm The World as Will and as Representation xuất bản vào năm 1859, Schopenhauer ca ngợi hết lời: “Vì giá trị tuyệt hảo và sự thật từ bên trong, Đạo Phật nên được xem như tư tưởng hàng đầu”. (11). Khoảng năm 1860 các đại học Đức có nhiều công trình nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Ấn Độ và nhiều nhận định cho rằng Ấn Độ là quê hương thứ hai của đại học Đức! Dân Đức thường hãnh diện về chủng tộc thuần chủng Aryan của mình và sau này đưa đến thực hiện chủ nghĩa Quốc Xã, tìm thấy dân Aryan ở Bắc Ấn là những người ‘đồng chủng’, gọi là chủng tộc Indo-Germanic. Có người ví von là dân Đức là ngưòi Ấn Độ của Âu Châu, hay nếu gỡ lớp bề mặt của một người Đức, người ta sẽ thấy các lớp bên dưới là chân dung của một người theo đạo Phật! Schopenhauer tiên đoán là sự ‘trở về’ của đạo Phật cho thấy sự tinh khiết hóa tư tưởng Âu Châu, nhất là các huyền thoại của Do Thái Giáo. Tuy nhiên người bỏ nhiều công phân tích Phật giáo và sự khủng hoảng tâm linh Âu Châu sau thời kỳ khai sáng, chính là người tuyên bố Thượng đế đã chết!

Nietzsche và Phật Giáo

Ở Việt Nam người viết về triết gia Nietzsche nhiều nhất là Phạm Công Thiện. Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát khỏi không khí ‘hư vô’ sau khi các triết gia thời khai sáng. Nhưng người nghiên cứu Nietzsche nghiêm chỉnh nhất là Linh Mục Lê Tôn Nghiêm. Thái độ nghiêm chỉnh này đưa đến chuyện mất niềm tin vào một Thượng Đế tưởng tượng. Lê Tôn Nghiêm có một phản ứng can đảm là trả áo vì không còn đủ niềm tin của một người chăn chiên. Mấy triết gia Việt nam đi trước thời đại. Họ đặt vấn đề hố thẳm của tư tưởng vào thập niên 60 vì hai thập niên sau, ở Anh Quốc, có một phong trào nghiên cứu tư tưởng Nietzsche được phát khởi một cách rầm rộ. Hội Nghiên Cứu Nietzsche được thành lập tại Anh vào năm 1990 và sách vở nghiên cứu Nietzsche tràn ngập thị trường chữ nghĩa. Các bài nghiên cứu về sự liên hệ giữa tư tưởng Nietzsche và Socrate, Kant, Schopenhauer, Heiddegger, thi sĩ Blake, Darwin, các nhà phê bình hậu hiện đại, thái độ của ông về Ky Tô Giáo, Phật Giáo vân vân…được in ra nhan nhản. Các lời phát biểu của Nietzsche thường gây ra tranh cãi được phân tích tường tận.

Tuy nhiên không phải triết gia nào cũng có thiện cảm với Nietzsche. Bertrand Russell vốn nhạy cảm với chủ nghĩa quốc xã, nên cho Nietzsche cổ võ một thứ triết lý ‘con người quyền lực’, nhằm loại bỏ những người hoặc chủng loại kém cỏi (như Quốc Xã đã tiêu diệt Do Thái và thí nghiệm tạo những con người tuyệt hảo như trong phim The Boys From Brazil do Gregory Peck đóng vai chính) khỏi mặt địa cầu và chỉ còn lại những con người hoàn hảo theo kiểu Nietzsche, một con người ‘không còn tình cảm, tàn nhẫn, gian trá, chỉ chuyên nghĩ tới quyền lực’.

Nói tới Nietzsche là phải nói tới ‘đối thủ’ của ông, người mà ông đã khai tử một cách gọn gàng; ‘Thượng Đế đã chết‘. Thượng Đế ngày xưa được ưa chuộng bao nhiêu thì bây giờ bị lạnh nhạt bấy nhiêu, nhất là ở Tây Phương. Ngay cả hàng ngũ chăn chiên cũng không còn mấy người tin là Thượng Đế có thật (ít nhất là Thượng Đế hữu ngã). Tuỳ Viên báo chí của Tổng Giám Mục Canterbury (Giáo Trưởng cao nhất của Anh Giáo) đã tuyên bố trong tờ Independence là có nhiều Mục Sư không còn tin tưởng vào sự hiện diện của Thượng Đế nữa, nhưng vẫn tiếp tục chăn chiên. Nói một cách khác các ứng viên Mục Sư Anh Giáo không còn phải xác nhận lòng tin Thượng Đế trước khi được tuyển, hay cả khi được phong vào hàng ngũ Tổng Giám Mục.

Q.N

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here