Trang chủ Nghiên cứu – Trao đổi Sự im lặng của Đức Phật: Từ Arahan thừa đến Bồ tát...

Sự im lặng của Đức Phật: Từ Arahan thừa đến Bồ tát thừa

134
0

A. Tình hình trí  thức ở India trong khoảng năm trăm năm sau khi đức Phật nhập diệt (thế kỷ I trước và thế kỷ I sau CN) là một sự hoang mang chưa bao giờ sâu nặng đến thế.

Khi đức Phật đản sinh (thế kỷ VII trước Kitô), không khí tinh thần hầu như hoàn toàn trống rỗng. Veda đã mất ý nghĩa, Upanisad bắt đầu hé dạng nhưng chưa thành hình và đang trong cái lòng kính kín mít của giới chiến sĩ quý tộc (satrya), chỉ mới thẩm lậu nhỏ giọt sang cấp nhà tu chính thống (brahmana). Rong rêu và cỏ dại mọc ra bừa bãi, đó là các ông đạo không nhà anagàriya, khất thực để sống (sanyassin), luôn luôn trên đường (samana); hơn sáu mươi thuyết theo kinh Phật xuôi ngược trong năm mươi năm để truyền giảng giáo pháp thiết thực cho người đời. Đạo Phật bắt đầu như thế, từ ở một bãi hoang có một cái xác xe đổ, trong vườn Nai của thị trấn Sarnath rồi lan rộng ra theo những đường mòn của India thời cổ.

Năm trăm năm sau, các bụi bặm đã lắng xuống các lệch nước và dòng sông. Còn lại bên lề của đạo Brahman, hầu như chỉ có đạo Jaina, đông nhưng thu hẹp trong một khu địa lí và không đi sâu vào đời sống tinh thần lớn rộng của tiểu lục địa Ấn Độ; với đạo Phật, đã được sự bảo trợ mạnh mẽ của mấy đời vua (Mauryakusana, Guptam), và đã lan tràn trong dân chúng từ chân rặng Himalaya xuống đến mỏm cực Nam, từ cửa sông Ganga đến cao nguyên Hindu Kutsh, và ra ngoài cả cõi Ấn xuống đảo Lanka, vào đến Trung Á, giáo lý của đức Thế Tôn, dạy rằng “Vạn vật vô ngã”, đối lại với giáo lý Upanisad dạy “ngã và Brahman là một”, đã thành một dòng tư tưởng lớn, nghênh ngang, hùng vĩ, minh bạch trong toàn cõi India thời Trung cổ.

Những người thờ Veda và theo Upanisad thấy sự thành công của đạo Phật, bắt đầu phản công lại. Patanjali và phái Yoga đứng riêng rẽ trung lập. Jaimini chủ trương Mimamsa, Gantama và Kanada lập thuyết NỳayaVaisesika, Lovarakrisna phát triển phái Samkhya (1), đều là để xây dựng học thuyết atman (ngã). Thế giới tư tưởng Ấn đã thấy hai cực đang kết lại, một là năm kiến giải (darsana) nhận tính cách thần thánh của Veda- Upanisad và chủ trương, từ những lập trường dị biệt, rằng atman (ngã) có và thực chất bản thể của vũ trụ cũng như con người; hai là đạo Phật, vừa là một hệ, vừa là một phép tu, dạy rằng không có atman (vô ngã), và gốc của sự khổ là vô minh (avidya) làm cho người ta tưởng là có atman, rồi đinh ninh huyển ảo vô thường là thực.

Vào lúc ấy, đạo Phật là đạo thù thắng trong xã hội, nhưng các bậc thức giả trong đạo đã thấy những thách thức và đe dọa đang nổi lên  ở khắp nơi.

Thêm vào đó, năm sáu thế kỷ phát triển đã làm lộ ra những điểm yếu cần được bồi đắp để chống lại những công phá càng ngày càng nhiều càng mạnh của các kiến giải trung thành với kinh Veda (mà người ta vẫn tin là đã được đấng tối cao truyền xuống từ thữa hồng bàng).

Và  đạo trong thời ấy đã trở thành xa cách với quần chúng, vì các Tăng Ni, hướng về sự tu hành cho thành chánh quả, đã lo cho bản thân nhiều hơn cho mọi người ngoài đời. Đó là chưa kể những chuyện không hay theo vết xe của các Bà-la-môn, cậy quyền, cật thế, phá giới, xé luật.

Asvaghosa (Mã Minh) là một vị tăng hữu học đã nhìn thấy sự cần thiết phải nhập thế và  cần gây dựng lòng tin bên cạnh sự tụng kinh học kệ để bồi đắp trí tuệ. Sách khởi tín luận Shraddhotpada được coi là một chứng tích quan trọng ở cuối thời Arahán thừa, chuyển sang Bồ tát thừa (gọi là Mahayana, Đại thừa).

B. Cái mầm Đại thừa trong Tiểu thừa

Trong những lời nói và trong sự im lặng của đức Thế Tôn đã hàm chứa cái mầm của một thừa mà Ngài chưa thể giảng được cho loài người sau khi rời khỏi bồ đề đạo tràng (Bodhi Gaya) để xuống chuyển pháp luân ở vườn nai Sarnath. Đức Phật chưa giảng, nhưng không phải là Ngài chưa cho biết.

Ngài  đã do dự lâu lắm trước khi quay gót trở lại cõi thế để bắt đầu việc giảng giáo pháp thâm diệu, nhưng khó hiểu vì ngược dòng. Truyền thuyết nói rằng chính đức Brahma đã cầu xin Ngài đừng bỏ, để sự khổ đau không bao giờ có sự chấm dứt. Khắp thế gian lúc ấy đức Phật chỉ thấy có hai người là có thể hiểu được đạo, nhưng cả hai đều đã chết. Giáo pháp mà Ngài dạy sau đó cho những người còn đầy cấu nhiễm, hoặc là khổ hạnh tịch cốc, lõa thể, hoặc là vừa rời nơi cung điện và phấn son hoặc là còn đang thờ thần Lửa hay cúng thần bằng sinh vật, đành rằng đã chính là đạo Phật, nhưng ở cấp nào, bực nào.

Trong tăng già (Sangha), sự tu hành của tám bậc lên đến cao nhất là Arahan quả: lớp đầu có Sariputta, Moggalàna, lớp sau có Maha Kassapa là những người mà đức Phật đã có lúc nào giao cho trọng trách dìu dắt và giảng giải giáo lý cho tăng chúng. Nhưng khi sắp tịch diệt, Ngài nói một câu đầy hứa hẹn, lạ lùng, vi diệu, mà không một ai khi ấy hiểu được ý nghĩa thâm sâu “Mỗi người là một vị Phật đang thành”.

Lý  tưởng cao nhất trong đạo không còn là Arahan, bậc thánh giả (Aryapuggala), đoạn diệt các lậu hoặc (asava), giải thoát khỏi sanh tử luân hồi (samsara); mà là vô biên , vô cùng, vô tận, vô tính, Phật.

Kinh tạng hầu hết là kể lại các lời của đức Thế Tôn; hoặc là đối thoại với ngoại đạo đến chất vấn là tranh luận, hoặc là lời giảng cho môn đồ về một điểm khó trong giáo lý. Nhưng cũng có những trường hợp đức Phật chỉ im lặng, không trã lời (catvàti avỳakrta vastuni) hầu hết là những câu mà đức Phật đã để vào trong cái lưới của Brahma (Brahmajala, trong Dighanikaya), Trường Bộ 2) trong đó sáu mươi hai luận chấp và sở kiến đã bị mắc phải và bị giam hãm, những vấn đề như “Thế giới thường hằng hay vô thường?”, “Vũ trụ hữu biên hay vô biên?”, “Hồn với thể là một hay hai và biệt lập?”, “Sau khi chết thì có cái gì tồn tại hay chết và hết?”v.v…Ngài nói rõ:

Những điều ấy. Như Lai không trả lời.

Các Tỳ -kheo môn đồ: Hãy thọ  trì là không trả  lời những điều Ta không trả  lời.

Và  thọ trì là có  trả lời những điều Ta có  trả lời.

Điều gì Ta trả lời? «Đây là khổ » là điều Ta trả lời. « Đây là khổ diệt » là điều Ta trả lời. « Đây là Đạo diệt khổ » là điều Ta trả lời (Majjhima – nikaya 63).

Các nhà Phật học (TW. Organ, 1954; Tetsuro Watsuji, 1927, GadjonM. Nagao 1991) đã lập luận nhiều về lý do sự im lặng của đức Phật.

Nhưng chính đức Phật đã giảng cho một vài môn đồ đủ trí hiểu biết vì sao Ngài không nói.

Một lần cho Malunkyaputta:

Này Malunkyaputta vì (những) điều ấy không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản phạm hạnh (đời sống trong giới luật, dẫn đến thanh tịnh), không đưa đến yểm ly (chán ghét), ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn (Trung Bộ -Majjhima-nikàya 63).

Trong Samyutta-nikàya (Tương Ưng Bộ) có cả một chương và mười kinh, đầu đề là tương ưng không thuyết (2) trong đó đức Như Lai đã im lặng trước tỳ  kheo ni Klema (3), rồi tỳ kheo Anuràda, tỳ kheo Mahà  Kotthika về những điểm có thể khác nhau. Nhưng với hành giả ngoại đạo Vacchagoctta (4), có một lần Ngài giảng, không phải cho Vaccha Ngài trả lời bằng sự nín yên, mà cho Ananda. Vì sự quan trọng của kinh này nên tôi chép nguyên văn (theo bản dịch T.M.C).

Ananda (Sự có mặt của ngã Atman) (S.IV,400)

      2. Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế Tôn, sau khi đi đến nói với Thế Tôn những lời chào hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên”.

      3.“Ngồi xuống một bên du sĩ Vacchagotta thưa với Thế Tôn: Thưa tôn giả Gotama, có tự ngã atta/atma không? khi được hỏi vậy “Thế Tôn im lặng”

      “Thưa tôn giả Gotama, có phải không có tự ngã không?”

      “Lần thứ hai tôn giả giữ im lặng”.

      “Rồi du sĩ Vacchagotta từ chổ ngồi đứng dạy và ra đi”.

      4.“Rồi tôn giả Ananda, sau khi du sĩ vacchagotta ra đi không bao lâu, liền bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn không trả lời câu hỏi của du sĩ Vacchagotta?”.

      5.“Này Ananda, nếu được hỏi: “Có tự ngã không?” và ta trả lời cho du sĩ Vacchagotta là: “Có tự ngã”, như vậy, này Ananda là thuộc về phái các sa môn chấp thường kiến (sàsvata-vàda).

      6.“Và này Ananda, nếu được hỏi, có phải không có tự ngã không? Và ta trả lời cho du sĩ Vacchagotta là: “không có tự ngã”, như vậy, này Ananda là thuộc về phái các Sa môn, Bàlamôm chấp đọan kiến (uccheduvàda).

      7. Lại nữa, này Ananda, nếu  được hỏi “có phải không có  tự ngã không ?”  và ta trả lời cho du sĩ  Vacchagotta là: “Có tự ngã”, như vậy câu trả lời của ta có phù hợp với trí khởi lên rằng: “Tất cả các pháp là vô ngã” không “Thưa không, bạch Thế Tôn”.

      8. Lại nữa , này Ananda, nếu được hỏi: “Có phải không có tự ngã?” và Ta trả lời cho du sĩ Vacchagotta là: “Không có tự ngã”, như vậy, này Ananda, lại làm cho du sĩ Vacchagotta càng ngơ ngác bối rối hơn nữa: “Trước đây ta có tự ngã, nay không có tự ngã nữa”.

      (Tương Ưng Bộ Kinh, Samyutta-nikaya tập IV, x:10)

Chú  ý: Trong Kinh này, đức Phật vẫn dạy rằng “Tất cả các pháp (vật) là vô ngã”, nhưng không nói rằng không vô ngã (tự ngã, atman) hay một cái gì không có tính và chưa có tên được giải thoát khỏi tái sinh luân hồi giới chân không (theo Bồ -tát thừa) nếu thành Phật. Thời gian chưa tới.

Sự  im lặng của đức Phật là một im lặng chứa  đầy ắp. Đức Từ phụ không phá im lặng đó, ngay cả với những đệ tử đã ly thoát khỏi sinh tử luân hồi. Vì phá im lặng ấy, tức là phá sự yên tĩnh đã đạt được trong tâm của các cao đồ Thế Tôn đối với tu sĩ ngoại đạo Vacchagotta (có thể ngơ ngác bối rối vì trước kia đinh ninh rằng mình có tự ngã, nay lại được bảo rằng, không có tự ngã) sẽ đảo ngược lại với Sariputta, Mogallana, Ananda, klema, Anuràda, Kotthiga, Malunkya, và toàn thể Sangha, làm cho tất cả phải ngẩn ngơ hoang mang vì sau khi đã khó khăn phá được chấp ngã, đoạn diệt được lậu hoặc tham hữu, thực hiện được rằng vạn pháp vô ngã, bỗng lại được bảo rằng có (tự ngã) hay một tương tự thế? Đức Phật im lặng, không phải vì không thể đi vào những vấn đề siêu thê (lokuttara), cũng không phải hẳn vì ngôn ngữ thô sơ vụ lợi của thế gian không thể nói ra được Chân như. Đức Phật giữ im lặng, vì giáo lý trong thời sơ khai này có mục đích thiết thực cấp bách (6) là diệt khổ bằng một con đường xây dựng phạm hạnh. Có một nhu cầu trong xã hội gay gắt cho những cá nhân đang bế tắc trong sự đi tìm một lẽ sống. Đạo Phật chỉ là một con đường, một con đường đi lên được và đi được con đường lên cung trăng, mà ai cũng có thể tìm thấy. Nhưng mặt trăng chỉ là cái đích đầu tiên. Ra ngoài trăng là đâu? Và là gì? Sự im lặng của Phật là trời ở ngoài trăng. 

T.N.N
 

Chú thích:

1. Lúc này vedanta chưa bắt đầu. X. Dacsan và Vedanta.
2. Avỳakata Samyuttam
3. Klema là con gái vua Bimbarasa; xuất gia theo Phật thành quả Arahan.
4. Vacchagotta samyattam
5. Vacchagotta đã xin quy y và sau đó đã thành đạo.
6. Kinh Màlunkya (Majjhima, Trung Bộ Kinh 63), đức Phật kể phúng dụ người bị tên độc, cần được mở ngay để lấy mũi tên ra không thì chết, nhưng lại biết về người bắt mũi tên đó, và cái cung cái tên…rồi mới chịu mổ. Kết cục là người ấy sẽ chết mà cũng không biết gì cả về những điều ấy.
 

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here