Trang chủ Vấn đề hôm nay Phật giáo và những vấn đề thời đại

Phật giáo và những vấn đề thời đại

135
0

Phật Giáo cơ bản là một Khoa học của sự tỉnh thức. Những cuộc đối thoại sau đây không nhằm mục đích mang lại cho Khoa học một dáng vẻ thần bí cũng như binh vực cho Phật Giáo dựa vào các khám phá khoa học.

Vấn đề xã hội học

Có người nghĩ rằng Phật giáo chỉ thuyết về những lý tưởng xa vời, những đạo hạnh tuyệt đối và các tư tưởng triết học cao siêu, mà bỏ qua những vấn đề xã hội, kinh tế của con người, là sai lầm. Đức Phật rất quan tâm đến hạnh phúc của con người. Đối với đức Phật, hạnh phúc không thể có được nếu không dựa vào một cuộc sống trong sạch, có đạo đức và giới luật. Nhưng đức Phật cũng hiểu rằng sống một cuộc đời như thế rất khó trong những điều kiện vật chất và xã hội không ổn định.

Phật giáo không cho rằng của cải vật chất là cứu cánh của cuộc đời, nhưng Phật giáo công nhận rằng con người cần phải có các điều kiện vật chất tối thiểu để có thể thành công trong đời sống tâm linh. Đức Phật không tách rời cuộc sống ra khỏi những khía cạnh về xã hội, kinh tế, chính trị. Các pháp của đức Phật về các vấn đề đạo đức, tâm linh và triết học được nhiều người biết đến. Nhưng ít người biết đến, nhất là ở phương Tây, các pháp của đức Phật về những vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị. Tuy nhiên, có rất nhiều bài giảng về các đề tài này rải rác trong các kinh điển của Phật. Hãy lấy vài thí dụ. Trong kinh Chuyển Luân Thánh Vương (Cakkavattishihanada, Trường Bộ, 26) có nói rõ rằng cái nghèo (daliddiya) là nguồn gốc của thói vô đạo đức và tội lỗi như trộm cắp, dối trá, bạo động, hằn thù, độc ác, vân vân. Vua chúa thời xa xưa, cũng như chính quyền ngày nay, cố gắng dẹp trừ các tội ác bằng hình phạt. Kinh Kutadanta (Trường Bộ, 5) nói rằng phương pháp này sẽ không bao giờ thành công. Thay vào đó, đức Phật dạy rằng, muốn xóa bỏ các tệ nạn xã hội, thì các điều kiện kinh tế của người dân cần phải được cải thiện.

Đức Phật dạy rằng có bốn điều có thể giúp hành giả được sống hạnh phúc trên thế gian này: 1. Đức tin (Saddha): Hành giả cần phải có đức tin, tin vào các giá trị đạo đức, tâm linh và trí tuệ 2. Giới (Sila): Hành giả phải tránh giết hại các sinh vật, không trộm cắp, dối gạt, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu 3. Bố thí (Caga): Hành giả cần thực hành bố thí rộng rãi, không bám víu và tham muốn của cải. 4. Trí tuệ (Panna): Hành giả cần phát triển trí tuệ đưa đến giải thoát khỏi khổ đau, để đạt được Niết bàn.

Phật giáo nhằm tạo nên một xã hội nơi đó mọi sự tranh chấp quyền lợi nguy hiểm bị lên án; nơi sự yên lành, hòa bình chế ngự sự hơn, thua; nơi sự vu cáo, kết án người vô tội bị phản đối kịch liệt; nơi người tự chiến thắng chính mình được tôn vinh nhiều hơn kẻ đã thắng triệu người khác bằng chiến tranh vũ khí hay kinh tế; nơi tình thương chế ngự hằn thù, sự tử tế chế ngự ác độc; nơi hận thù, ghen ghét, ác ý và lòng tham không ô uế lòng người; nơi mọi hành động xuất phát từ lòng từ bi; nơi mọi chúng sinh, kể cả những loại nhỏ mọn nhất, đều được đối xử công bằng, tế nhị và thương yêu; nơi cuộc sống an bình, hòa thuận, trong một thế giới đầy đủ vật chất, được hướng đến mục đích cao thượng nhất: sự giác ngộ Niết bàn, chân lý.

Vấn đề đạo đức học Phật Giáo

Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý trí mà thiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm, nhằm nêu ra một nguyên tắc tổng quát để xếp loại và đánh giá các hành động. Đạo đức học nhằm nêu định cứu cánh của mọi hành động hợp lý mà con người cố vươn tới, tức mục đích, lý tưởng của cuộc đời và tìm các phương cách giúp con người tiến tới mục đích lý tưởng ấy.

Đức Phật dạy: “Ví như nước biển chỉ có một vị là vị mặn, cũng vậy, này Pahàrada, Pháp và luật của ta chỉ có một vị là vị giải thoát”. Ngài còn dạy: “Này các Tỳ kheo, xưa cũng như nay ta chỉ nói lên sự khổ và diệt khổ”. Trong lần chuyển pháp luân đầu tiên tại Benares, giảng về Tứ Đế Đức Phật xác định đây là khổ, nêu nguyên nhân của khổ, nói đến sự chấm dứt khổ (giải thoát, Niết bàn) và con đường diệt khổ. Thế là Ngài đã tuyên bố mục đích của mọi hành động của con người và của giáo lý của Ngài là nhằm giải thoát khỏi khổ đau. Đối chiếu ý nghĩa này với định nghĩa chung về đạo đức học đã nêu, ta có thể nói toàn bộ giáo lý của Đức Phật là một giáo lý đạo đức, hay Phật học là đạo đức học, một đạo đức học xây dựng trên giải thoát, do một người đã giải thoát truyền dạy, lấy giải thoát làm cứu cánh, lấy giải thoát làm chuẩn tắc để đánh giá các hành động. Xác định nền tảng của đạo đức học Phật giáo là giải thoát, ta có thể dễ dàng giải đáp câu hỏi cơ bản đã nêu trên: Giải thoát là nguồn gốc của các nguyên tắc đạo đức. Thực ra mệnh đề này là kết quả của sự lập luận rằng: Do khổ, do kinh nghiệm khổ mà nảy sinh ra cái nguyên tắc đạo đức cơ bản là sự diệt khổ, thoát khổ, đẩy đưa đến sự diệt khổ tuyệt đối, cứu cánh, đấy là giải thoát tối hậu, Niết bàn. Giải thoát là mặt bên kia (mặt tích cực trong ý nghĩa đạo đức) của khổ đau, giải thoát và khổ đau là hai mặt của một thực tại đang hiện hữu tại đây, giờ đây. Vậy thay vì bảo giải thoát là nguồn gốc của các nguyên tắc đạo đức, ta có thể bảo khổ cũng là nguồn gốc ấy. Từ đây vế thứ hai của câu hỏi cũng được dễ dàng giải đáp : “Giải thoát là giá trị tối hậu đích thực của các nguyên tắc đạo đức.”

Dù Phật giáo không hề muốn bị xếp như một triết thuyết như duy nghiệm, duy lý, duy cảm v.v… nhưng Phật giáo, đạo đức học Phật giáo, không thể không là đối tượng nghiên cứu cho các nhà triết học và không thể tránh khỏi sự sắp xếp phân loại của các nhà nghiên cứu đạo đức. Thế thì hãy tạm gọi đạo đức học Phật giáo là đạo đức học Trí giải thoát lại còn được xem là nguồn gốc của lương tâm, của ý thức đạo đức tức là của chính nó, hiểu theo lập luận của E.Kant khi ông gọi nguồn gốc ấy là lý trí thuần túy thực tiễn, cái nhân tố phát khởi những mệnh lệnh quyết định. Nếu Descartes đẩy ý thức đạo đức lên thành các tác phẩm của thượng đế, nếu Spencer đẩy lùi nó vào cái thói quen do di truyền thì đạo đức học Phật giáo gọi nó là dư y của ý thức giải thoát, một thiện nghiệp trong quá khứ và có thể được vun đắp thêm trong hiện tại.Nói đến giải thoát là nói đến tự do. Thông thường giải thoát được hiểu là trạng thái được sau khi thoát khỏi sự ràng buộc, sự trở ngại, khổ đau, mất tự do; tự do là trạng thái thoải mái, có thể tự mình quyết định hành động của mình, tự mình chọn lựa… Như vậy giải thoát và tự do có thể được xem là đồng nghĩa, nhất là khi ở bình diện tuyệt đối, Giải thoát và Tự do đồng nghĩa với Niết Bàn, là Niết bàn là Phật. Ở bình diện tương đối của thế gian, giải thoát và tự do chỉ có thể được thực hiện trong giới hạn. Một hành động như tìm nước uống để thỏa mãn cơn khát, làm một việc thiện để đạt được niềm vui tự nội… đều có giá trị giải thoát tương đối. Tự do chọn nghề, tự do nghỉ ngơi… là những tự do tương đối vì người ta không thể tự do lấy của cải của người khác, không thể tự do vượt khỏi những hạn chế của cơ thể để thực hiện những điều không tưởng, không thể tự nhiên mà thoát được sinh, già, bệnh, chết…

Vấn đề giáo dục của đức Phật.

Những bài pháp của Đức Phật thường được trình bày chi tiết và tỉ mỉ. Tính rõ ràng, trong sáng và trình bày có logic đã làm nỗi bật các bài pháp dài của Ngài, những bài pháp được tuyên giảng theo chủ đích riêng. Dù thuyết giảng cho vài người hay cho một hội chúng, Ngài cũng đều tìm cách hướng dẫn người nghe tiến dần từng bước đến ý tưởng Ngài muốn thành lập. Kinh chuyển Pháp Luân (Dhammacakkapavattana) và Kinh Niệm Xứ (Satipatthàna) là những bài kinh tiêu biểu có một vài đặc điểm dễ nhận biết, vì Ngài thường bắt đầu bài kinh bằng lời giáo huấn gợi sự chú tâm, chẳng hạn như: “Có hai cực đoan người tìm chân lý cần nên tránh.” Hoặc “Có một con đường thẳng tắt và đảm bảo đến đích…” v.v… Ngài phân tích một khái niệm ra thành nhiều thành tố và trình bày tư tưởng dưới dạng thống kê, nhằm giúp trí nhớ cho người học. Đức Phật thường sử dụng phép so sánh và phép suy diễn một cách nhuần nhuyễn, được rút ra từ nếp sống hằng ngày của quần chúng, chẳng hạn như công việc của người nông dân, người đồ tể, người bán hoa, người dân chài, người chiến sĩ và quan chức. Ngài lập đi lập lại những khái niệm quan trọng và quay lại những khái niệm đó bất cứ khi nào quần chúng có thể chấp nhận. Sự trình bày những khái niệm như vậy hầu như phát triển đến mức trở thành những công thức tiêu chuẩn, mẫu mực và sẽ tái diễn bất cứ khi nào khái niệm được đề cập đến trong cấu trúc biểu đạt tương tự. Bài pháp tuần tự đưa thính giả đi đến kết thúc bằng những lời cầu thỉnh tha thiết, xin được Quy Y với Ngài, để đi theo con đường giải thoát do Ngài giới thiệu.

Trong các cuộc đàm thoại với cá nhân Ngài thường sử dụng một vài phương pháp học thuật làm cho cuộc đàm thoại trở nên sinh động: thường Ngài làm cho người tranh luận trình bày rõ quan điểm của mình và chấp nhận một lập trường tư tưởng nào đó. Nhưng đức Phật sẽ không tiến hành cuộc thảo luận, trừ khi Ngài chắc chắn đã hiểu rõ quan điểm người tranh luận. Ngài hết sức thận trọng trong việc khai thông tiền đề vào lúc khởi đầu mỗi cuộc bàn luận. Nếu không đồng ý, Ngài không chê bai cũng không bài bác ý tưởng của đối phương, mà Ngài bắt đầu đặt câu hỏi. Những câu hỏi này luôn là những câu hỏi thăm dò, được sắp xếp cẩn thận nhằm chinh phục đối phương nhận ra những lý lẽ ngụy biện của chính mình. Vị ấy được đưa dần đến chỗ nhượng bộ và bỏ hẳn quan điểm ban đầu của mình. Nét độc đáo nhất của đức Phật là Ngài đã khéo sắp xếp lại tiên trình suy nghĩ của người tranh luận bă讧 cách đặt câu hỏi nhanh và liên tục. Phép so sánh và loại suy được sử dụng trong việc làm rõ thêm chi tiết và giải thích những câu hỏi này. Những giai thoại về truyền thuyết và lịch sử là hình ảnh nổi bậc trong bài giảng của Ngài. Chỉ trong một vài trường hợp, Đức Phật mới phơi bày hết tất cả quan điểm ban đầu của người tranh luận là lố bịch và sai lầm nghiêm trọng, khi người tranh luận đã chịu từ bỏ lý lẽ của mình và sẵn sàng đồng ý với Ngài. Cho đến lúc đó, đức Phật mới bắt đầu giảng giải ý tưởng riêng của Ngài về vấn đề đang tranh luận. Bất cứ đề tài bàn thảo nào, đức Phật cũng tuần tự hướng dẫn người tranh luận đi đến một sự phân tích tỉ mỉ về con đường giải thoát. Dù là thuyết giảng, phân tích hay đàm thoại, tranh luận, đức Phật đều sử dụng một loạt các phương pháp giáo dục thực hành tiêu chuẩn. Ngài nhắm vào trình độ trí thức của người học và tuyên giảng cùng một ý tưởng bằng nhiều phương thức khác nhau tùy theo bản tánh và thể chất của người nghe. Ngài bắt đầu bằng những điều đã hiểu biêt và nhấn mạnh vào điều ấy như một nguyên tắc căn bản trong tất cả các lời Ngài dạy. Ngài không đề cập đến những điều suy đoán làm lãng phí thời gian và khuyên nhủ ta nên cố gắng “biết về sự vật như nó thực sự đang là.” Ở đây tầm quan trọng nhắm vào cả sự hiểu biết lẫn sự thực.

Vấn đề khoa học

Phật Giáo nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc giải thích bản thể của tâm bằng thiền định. Trải qua nhiều thế kỷ, các Phật tử đã tìm ra cách tiếp cận thật nghiêm chỉnh việc tìm hiểu các trạng thái tinh thần và bản thể rốt ráo của tâm. Tâm đứng đằng sau mọi hoạt động trong đời sống, là cửa sổ giúp ta cảm nhận thế giới. Chỉ cần một thay đổi nhỏ trung tâm thì thế gian này sẽ hoàn toàn đảo lộn. Dù những khám phá của Phật Giáo có sâu sắc đến đâu đi chăng nữa, chúng ta cũng nên luôn luôn nhớ rằng giáo lý Phật Giáo không hề có tính cách giáo điều. Nó gần như một bản đồ chỉ đường để chúng ta đi theo người hướng dẫn. Phật Giáo sẵn sàng sửa sai nếu biết mình lầm lỗi. Không phải vì nó nghi ngờ tính chân thật của những khám phá đó được công khai nhìn nhận, nhưng vì chúng đã thực sự được trãi nghiệm. Trong việc đi tìm kiến thức, Phật Giáo không trốn tránh sự mâu thuẫn, trái lại còn nuôi dưỡng nó. Trong những cuộc hội thảo siêu hình mà Phật Giáo tham dự trải qua nhiều thế kỷ với các triết gia Ấn độ cũng như với khoa học và các Tôn giáo khác, Phật Giáo đã có cơ hội tu chỉnh, mở rộng các quan điểm Triết học, luân lý của mình trong việc tìm hiểu thế gian.

Nhưng thái độ cởi mở của Phật Giáo không phải là một thái độ cơ hội rẻ tiền. Những đóng góp lớn lao cho Triết học, những thảo luận về thiền định sâu sắc và gợi cảm và việc thực hành thiền định đòi hỏi một quyết tâm cao với một sự kiên nhẫn không gì lay chuyển được. “Không nên hy vọng một thành tựu mau chóng, nhưng cứ tiếp tục thiền định đến hơi thở cuối cùng” đó là lời của Tổ Milarepa. Sự chuyển hoá nội tâm dẫn đến giác ngộ, thuộc về một lĩnh vực hoàn toàn khác hẳn với công việc tìm tòi Triết học hay khám phá của Khoa học.

Phật Giáo cơ bản là một Khoa học của sự tỉnh thức. Những cuộc đối thoại sau đây không nhằm mục đích mang lại cho Khoa học một dáng vẻ thần bí cũng như binh vực cho Phật Giáo dựa vào các khám phá khoa học. Thật ra là để đặt lại vị trí của Khoa học trong bối cảnh một quan điểm rộng rãi hơn về đời sống mà kinh nghiệm về đời sống tâm linh đóng một vai trò thiết yếu. Cũng là để nối kết cách nhìn các hiện tượng xuất hiện cũng như thực chất của chúng, để có thể chỉ ra là Phật Giáo có thể giải quyết được sự đối kháng giữa thực tại, chủ trương rằng các hiện tượng là có thực và các khám phá vật lý đi ngược lại cách nhìn này.

(Tuệ Như gởi bài)

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here