Trang chủ Vấn đề hôm nay Phật giáo và hòa bình thế giới: Bài 2: 20 ưu...

Phật giáo và hòa bình thế giới: Bài 2: 20 ưu điểm của Phật giáo trong việc góp phần kiến tạo hòa bình

138
0

Bây giờ tôi xin bước sang phần hai là Phật giáo. Theo suy nghĩ của cá nhân tôi, nếu nhìn thế giới toàn diện thì Phật giáo là một tín ngưỡng quan trọng, có một thế giới quan gần nhất với một mô hình lý thuyết năng động và cực kỳ phức tạp về hoà bình. Tôi thử phân tích điểm này bằng cách chia làm hai phần: Phật giáo có 20 điểm mạnh hoàn toàn phù hợp với việc theo đuổi hoà bình và có 6 điểm yếu ngăn trở mà tôi sẽ trình bày ở phần sau. Để đúc kết, tôi sẽ đối chiếu mối quan hệ hỗ tương giữa những hình ảnh được trình bày về Hoà bình và Phật giáo.

1.Vô Ngã

Điểm cơ bản nhất theo Phật giáo là thuyết Vô Ngã, một tinh thần không chấp ngã nhưng thường hằng. Tôi xem quan điểm này không có nghĩa là phải loại trừ những đặc điểm bất thường, luôn đổi thay, có thể nếu nói một cách ẩn dụ, thì đây là phù hợp với quan điểm tâm linh ở phương Tây trong tinh thần tập thể: đồng cãm với những sinh vật hữu tình khác trong mọi phạm vi. Nhưng điểm cần loại trừ là chủ nghiã cá nhân, một trọng điểm của phương Tây, khi cá nhân tự kỷ coi mình là độc đáo, cá biệt, không ràng buộc, bảo đảm cho một cuộc sống riêng bất tử theo nghiã thường hằng. Điều chắc chắn là thuyết Vô Ngã không loại trừ ý nghĩa về một tinh thần liên đới giữa con người, theo ý nghĩa kết hợp thành nhất thể cuả tất cả mọi con người với những sinh vật hữu tình khác, bất kỳ họ đang ở đâu, không thể kể đến biên giới, tuổi tác, giới tính, chủng loại, quốc gia, giai cấp, hay trong môi trường thiên nhiên, không nhất thiết phải là trong cùng môi trường sống, và cũng không biệt với thú vật. 

Ta có thể nói theo Thiên Chúa giáo thì sự tìm kiếm nhất thể có tính hướng thượng, bắt nguồn từ những cá nhân hiện đang sống ở đây thông qua Chuá Jesus để rồi tiến đến Thượng Đế, (nhưng không ít nhiều cũng phải qua trung gian của Giáo hội, và điểm này cũng còn tùy thuộc vào loại Giáo hội nào). Theo Phật giáo, sự tìm kiếm kết hợp nhất thể mở rộng trong không gian cho từng cá nhân xuống cho đến các chủng loại khác không thuộc con người (nếu ta có thể diễn đạt lối „hướng hạ“ chung như vậy) vừa thoái bộ và tiến bộ qua thời gian theo những nguyên tắc nghiệp báo và tái sinh. Đây là khái niệm đặc sắc của Ấn Độ giáo về sự chuyển hoá tâm linh cá thể trong thường tại. 

Chính vì thế mà thuyết Vô Ngã với một mức độ cao cả tạo ra được đồng cảm cho tất cả mọi chủng loại từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, ngay cả khi sự kết hợp nhất thể này được coi như là một cái gì đó mang tính nội tại. Đó là đặc điểm mà tôi có ở trong tha nhân và tha nhân có ở trong tôi. Tôi là một tiến trình, cùng liên tiến với những tiến trình khác trong tâm trí, thể xác và cùng chung vấn đề dù bất cứ nơi nào trong quá khứ, hiện tại và tương lai; tùy theo điều kiện mà đã gây hay đang gây vấn đề cho tha nhân. Thuyết Vô Ngã loại bỏ mọi biên giới, chống lại mọi phân hoá, kết hợp cá nhân, nếu không, thì họ đọ sức nhau trong cuộc đấu tranh để dành sự quan tâm và ân sủng của Thượng Đế khi tìm đến Ngài, nhưng có những đòi hỏi phàm tục hơn nếu khi thấy Ngài bắt đầu suy yếu, một hiện tượng chỉ quen thuộc trong thế giới của người theo đạo Thiên Chúa. Những người theo đạo Thiên Chúa và hữu thần tìm kiếm sự liên kết hướng thượng với Thượng Đế. Ngược lại, Phật tử mở rộng liên kết với mọi chúng sinh, tha nhân đang sống trong mọi không gian và thời gian. Thiên Chúa giáo có thể phân cách, trong khi Phật giáo, với tinh thân Vô Ngã, chỉ kết hợp.  

2.Bất Bạo Động

Hậu quả của thuyết Vô Ngã là bất bạo động hướng về mọi chúng sinh, chắc chắn một điều là kể cả thú vật, (đó là lý do tại sao Phật tử có khuynh hướng ăn chay). Bất bạo động cũng không nên hiểu theo ý nghĩ vị kỷ hay vị tha. Hai khái niệm này đề ra rằng ích kỷ chỉ cố tối đa hoa lợi lộc của mình, ngay cả khi người khác phải chịu phí tổn, trong khi người vị tha lại cố làm tối đa hoá lợi lộc cho người khác hưởng, ngay cả khi mình phải chịu phí tổn. Trong phạm vi của thuyết Vô Ngã, bất bạo động phải được hiểu là một quy luật không làm thương tổn tha nhân bởi vì làm thương tổn tha nhân cũng là làm thương tổn chính mình, tất cả chúng ta cùng một chủng loại, cùng là một phần trong tiến tình tương tác nhau, tất cả liên hệ với tôi trong cùng một thời gian và không gian. 

Theo Ghandi, tư tưởng này cực kỳ quan trọng, sự kết hợp nhất thể trong con người và trong cuộc đời trở thành lý thuyết chính mà ông dựa vào đó để làm nền tảng. Hiển nhiên, tinh thần bất bạo động có ảnh hưởng quan trọng trong việc kiến tạo hoà bình, nhưng vấn đề là có một vài nơi trên thế giới có tinh thần bất bạo đông, còn có nơi khác thì không. Chính vì thế có một lập luận cho là ít nhất phải có một chiến lược trung gian hướng về một thế giới cần được khai sáng nhiều hơn: đó là khaí niệm phòng thủ tự vệ. 

3. Từ Bi

Bất bạo động là lối diễn đạt tiêu cực. Thực ra, trong ngôn ngữ Sankrit bất bạo động có nội dung ít tiêu cực hơn. Lối diễn đạt này xuất phát từ Ngũ giới mà hầu hết là không được phép làm (không được tự tử, sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và dùng rượu). Ngũ giới phải được hiểu chung với Ngũ pháp, năm hành động theo ý nghĩa tích cực. Một trong năm Ngũ Pháp này là Từ Bi, mà ta có thể diễn dịch là lòng thương cảm. Nói khác đi, ta không những chỉ từ bỏ bạo lực mà còn mở rộng lòng thương cảm đối với mọi chủng loài bất cư nơi đâu. Bốn hành động khác là hướng thiện gồm có việc không buôn bán vũ khí và ruợu, kiểm soát dục tính và đam mê, nói sự thật và tĩnh thức – trong ý nghĩa là từ bỏ mọi bất cẩn và vô tâm. 

Theo quan điểm lý thuyết hoà bình, điểm này quan trọng. Theo trọng tâm của Phật Giáo thì điểm cơ bản không phải là hoà bình theo nghĩa tiêu cực mà tích cực, không phải chỉ có sự vắng mặt của chiến tranh mà có mối quan hệ tốt đẹp, không phải chỉ có Ngũ giới mà còn có Ngũ pháp.

4.Cộng Sinh. 

Tư tưởng chính của Phật giáo là chúng ta có một tài sản đạo đức chung. Phật tính là một đặc điểm chung mà chúng ta có thể cùng nhau đạt được. Mục tiêu của chúng ta không là tự thực hiện trong tinh thần cá nhân thường hằng, mà tự thực hiện cuả tất cả, bởi vì chúng ta gắn bó nhau trong mối quan hệ nhân quả có điều kiện. 

Lối suy nghĩ này không thể áp dụng cho phạm vi toàn thế giới. Phúc lợi, tăng trưởng và an ninh của các nước khác cũng chính là phúc lợi, tăng trưởng và an ninh cho đất nước của tôi. Nếu tôi làm tổn hại cho cá nhân hay tập thể khác, thì chúng ta không thể nào cùng nhau phát triển chung, kể cả việc gặp gỡ nhau. Tôi có thể chiến thắng đơn độc, nhưng đó cũng là cho tất cả. Trên nguyên tắc, loại suy nghĩ này sẽ dẫn lối tới chuyện mua bán mà tôi cố xây dựng với người khác qua những thoả thuận để hợp tác, thay vì cố gắng tối đa hoá lợi lộc của riêng mình trong ngắn hạn. Kế toán quốc gia hiểu theo nghĩa thặng dư hay thâm thủng mậu dịch và lợi tức tính theo đầu người dựa trên tổng sản luợng quốc gia trở thành vô nghĩa, khi ta không quan tâm tới sự tương thuộc thế gian. Đây chỉ là lối diễn đạt về tinh thần vị kỷ trong thế giới, chỉ coi đất nước mình là trọng và vĩnh cữu. Một tài sản đạo đức tập thể sẽ hướng chúng ta tới tinh thần cộng sinh và bình đẳng. 

Hậu quả khác là lý thuyết không những hướng về an ninh chung (thí dụ như Uỷ ban Palme) nhưng còn về hợp tác an ninh. Ý kiến này có thể định hình cho những thể chế quốc tế thí dụ như Lực Lượng Duy Trì Hoà Bình Liên Hiệp Quốc. Hiện nay, quan trọng hơn có lẽ là những nỗ lực nhằm xây dựng an ninh riêng mà không giảm bớt an ninh của nước khác, thí dụ như thông qua hệ thống với vũ khí phòng thủ hơn là tấn công.

Tóm lại, trong lý thuyết hoà bình, lối suy nghĩ tập thể định hình cho một hình thức “an ninh của tôi là an ninh của anh và ngược lại”, suy nghĩ này đưa tới một khái niệm kết hợp hơn là loại trừ. Quan điểm này cho thấy phải vượt qua mục tiêu quá giản lược là chỉ lo về giải giới như là con đường dẫn tới hoà bình.

5. Dị Biệt

Cơ bản của Phật giáo là lòng bao dung, một phương châm nổi tiếng trong 84 ngàn pháp môn. Lịch sử cho thấy là không có một nơi nào gọi là một trung tâm chính thức để bảo vệ giáo lý Phật giáo, cũng không có toà án dị giáo và chiến tranh liên tôn. Nhưng Phật giáo có lòng bao dung đối với các tín ngưỡng khác, tạo cho tôn giáo khác có điều kiện kết hợp với Phật giáo trong một tầm mức rộng lớn hơn, hoặc ít nhứt cũng có thể sống chung với Phật giáo. Phật giáo theo thuyết đa nguyên hơn là đơn thuần, ngay cả khi có ý tưởng giúp các tôn giáo bạn. 

Đó là ý nghĩ hợp nhất trong đa dạng; nhưng cũng có đa dạng trong hợp nhất được giả định. Có sự cộng sinh trong dị biệt như người ta chứng kiến khả năng Phật tử có thể kết hợp các loại suy nghĩ khác trong cách tư duy của mình. Trước tình trạng dị biệt của những hình thái xã hội và thái độ con người thì lý thuyết hoà bình muốn nó đặt thành những điều kiện kiên định trong hệ thống. Nếu lý thuyết áp dụng được trong mối quan hệ cộng sinh, thì nó sẽ không những phù hợp cao độ với tư tưởng Phật giáo mà còn trong tu tập, nhất là tránh được những đường lối đối nghịch cực đoan. Đó là việc mưu tìm hợp nhất cho phù hợp với lý thuyết và hành động.

6. Lý Thuyết Trung Đạo

Thuyết Trung Đạo là một phương hướng cụ thể cho cuộc sống. Điểm chính của thuyết này là không quá nhiều hay quá ít, một cách giúp cho Phật tử có khuynh hướng không cực đoan. Trong phạm vi thái độ và tín ngưỡng, phương cách này bao gồm một khuynh hướng xa rời mọi thái độ cực đoan, rất hữu ích giúp cho Phật tử cũng như tín hữu Quakers trở thành những người làm nhịp cầu nối kết. Phật tử dễ làm người trung gian để tiếp xúc cho các phần tử cực đoan, đưa những phần tử này hướng về một quan điểm Phật giáo thực dụng hơn, giúp họ cảm nhận là quan điểm cực đoan chỉ là những nhận thức phiến diện.   

7. Thực Hành Trung Đạo 

Thực hành là một biểu hiện cụ thể điểm Trung Đạo vừa nêu. Trong cuộc sống vật chất, thực hành điểm này có nghĩa là không thể có quá it khi chưa đủ để thoả mản cho những nhu cầu cơ bản, mà cũng không thể tích lũy quá nhiều nhằm sang giàu, điều nên tránh. Trong đời sống tâm linh, điều này có nghĩa là không nên làm tự hành hạ làm khổ mình mà cũng không nên tự bung lung cẩu thả. Ảnh hưởng cuả lối sống này tạo cho xã hội tương đối công bình, ít quan tâm đến lý tưởng làm giàu vật chất do bóc lột hay thụ đắc, cẩn trọng hơn đến sinh hoạt kinh tế, không làm cho tha nhân bị mất cơ hội đạt được một cuộc sống trung dung. Để giữ nguyên tắc kết hợp nhất thể, con người sẽ đóng một vai trò cơ bản trong mối quan hệ. Dù chúng ta thấy đây là một lý thuyết xã hội, nhưng cũng có thể là một lý thuyết áp dụng cho các quốc gia trên thế giới: không một quốc gia nào phải chiụ tiêu thụ quá ít, mà không quốc gia nào được tiêu thụ quá mức. Nói một cách cụ thể hơn, không quốc gia phải tiêu thụ quá ít, vì bị quốc gia khác tiêu thụ nhiều đến độ không còn gì. Một lần nữa, theo lý thuyết hoà bình, quan điểm này đem lại một cơ sở vững chắc cho những chính sách hoà bình tích cực dựa trên công bình, và hình thức bình đẳng trong mọi trao đổi làm cho nguyên tắc bình đẳng không bị thương tổn, vì dựa trên thái độ hợp tác cộng sinh. Vì dựa theo triết lý Phật giáo mà có người còn cho là lý thuyết công bình cần mở rộng định nghĩa cho trộm cắp, phù hợp hơn với khái niệm bóc lột, nhưng thật ra đây là điểm còn cần tranh luận.    

8. Hiệu Năng Với Quy Mô Nhỏ    

Nếu chúng ta chấp nhận cần có một khuôn mẫu hợp tác để hướng về Phật tính, để nhân sinh tương tác trong thường hằng, cùng tương trợ nhau, điều này chỉ có ý nghĩa trong những đơn vị có quy mô nhỏ. Ngay cả một phong trào Phật tử đại chúng như Soka Gakkai, với những cuộc biểu tình rầm rộ, dường như cũng cho thấy là họ chỉ thành công nhất trong những nhóm nhỏ có quen biết. Nói chung, lối suy nghĩ này là tiêu biểu trong phái Tiểu Thừa hơn là Đại Thừa, mà phong trào Soka Gakkai là một thí dụ. 

Theo lý thuyết hoà bình, những đơn vị xã hội có quy mô nhỏ trong bốn phạm vi (thiên nhiên, con người. xã hội và thế giới) dường như được nhiều an hoà hơn, vì trong đó có một cơ chế điều hướng mà người ta có thể nói cho nhau nghe điều sai lầm, chịu đựng chung hậu quả của tranh chấp và hưởng chung những lợi lộc do hợp tác đem lại. Trong những xã hội đại chúng mà cá nhân bị phân tán trầm trọng, giữ khoảng cách với giới có quyền thế, khó có một cơ chế điều hướng như vậy. 

Nói chung, Phật giáo có khuynh hướng quan tâm đến những đơn vị có quy mô nhỏ trong tổ chức xã hội, và những đơn vị nhỏ này ít có chống đối nhau hơn các tổ chức lớn, nếu không kể đến có những lý do khác thì đơn vị nhỏ có ít phương tiện sinh ra những hoạt động phá hoại. Nhóm nhỏ tạo cơ sở tốt hơn cho việc phát huy tình huynh đệ như là những điều kiện cho nhân tính –  con đường dẫn đến Phật tính, mẫu mực tốt đẹp cho sự kết hợp lý thuyết hoà bình và tu tập theo Phật giáo.  

9. Tính Tổng Thể 

Phật giáo không có khó khăn trong suy nghĩ cũng như hành động cho phù hợp theo bốn phạm vi vừa kể, không chấp nhận phân hoá, nhân tạo, giả tạo của sự kết hợp rộng lớn thành nhất thể của sinh hoạt hữu tình. Tuy nhiên, trong bốn phạm vi này, tôi thấy cần giải thích một lần nữa là Phật giáo trong giáo lý cũng như trong tu tập có sức thuyết phục nhất trong hai phạm vi con người và thiên nhiên, và ít được triển khai như là một loại sách cẩm nang về tư tưởng và thực hành cho phạm vi xã hội và thế giới. Dù trong Phật giáo có thiếu một cách tương đối về mặt lý thuyết cho thế giới và xã hội, nhưng khó khăn này được vượt qua dễ dàng nhờ sự đóng góp của các Phật tử hiện nay và kể cả của các triết gia. Dù điều kiện cơ bản đã đạt được, nhưng chuyển hướng về sự kết hợp nhất thể không đưa ra một giới hạn nào trong nguyên tắc giữa các phạm vi để nói rằng: “Đây không phải là mối quan tâm của tôi”. 

Thực vậy, Phật giáo không có đặc điểm siêu hình mà là một triết lý đạo đức được chứng nghiệm, không có một phạm vi cho mặc khải thần thánh để phân biệt với con người. Đức Phật đạt được một sự tĩnh thức sâu xa, nhưng Ngài cũng là một con người. Khi các tôn giáo phương Tây triển khai thần học như là một khoa học thần thánh, thì triết lý Phật giáo (nếu gọi tương phản là Thần học Phật giáo) được tự do hơn khi đặt trọng tâm vào thế giới này trong quan điểm nhất thể. Trong lĩnh vực triết học, tâm lý học, y khoa và dinh dưỡng, nguyên tắc này mạnh nhất, trong khi trong lĩnh vực xã hội học, kinh tế học và quan hệ quốc tế thì nguyên tắc này yếu hơn. Nhưng không có gì cản trở cho các nhà tư tưởng Phật giáo tiến bước trong các lĩnh vực trên theo nguyên tắc này.

10. Đại Chúng

Về phương diện lịch sử, Phật giáo có khuynh hướng trở thành một tôn giáo của đại chúng, hoặc là một hệ thống tín ngưỡng của toàn dân, một phong trào cho đám đông, không là tôn giáo cho giới thượng lưu hay quyền thế. Thực vậy, Phật giáo bị đưa ra khỏi Ấn Độ vì không thích hợp với khía cạnh giai cấp của Ấn Độ Bà La Môn giáo. Ở Nhật Bản, giới lãnh đạo đã thích nghi với Thần Đạo, một quốc giáo mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc và đối kháng, xem như là một chuyển hướng cơ bản, cộng thêm với Thiên Chúa giáo. Tại Đại Hàn, và cũng có một phần tại Trung Quốc, giới lãnh đạo bám chặt lấy Thiên Chúa giáo, giới trẻ sau này cũng tiếp thu các quan điểm Tự do, Bảo thủ và Mác Xít. 

Tại Đại Hàn ngày nay, người ta còn thấy trong giới lãnh đạo có người theo Thiên Chúa giáo quá khích tại miền Nam và Mác xít cực đoan tại miền Bắc, và Phật giáo có ảnh hưởng lan rộng trong dân chúng – cũng có thể có ở miền Bắc. Điều này biểu hiện một tiềm năng to lớn cho chính sách hoà bình nếu những nhà lãnh đạo chịu nhường bước hoặc tự hoà giải trước sự thôi thúc chung của người Đại Hàn về việc thống nhất. Lấy Phật giáo làm kim chỉ nam, một chính sách hoà bình liên hợp của hai phiá dựa trên giáo lý Phật giáo tạo được một nền tảng vững chắc theo điều kiện có sự tham gia của đại chúng. 

Nhưng Phật giáo tại Đại Hàn suy yếu, cũng có thể là vì quá tham nhũng và chống lại sự chinh phục của Thần đạo Nhật. Đó có thể là lý do tại sao giới lãnh đạo đáp ứng lại tình hình bằng cách bám chặt theo lối suy nghĩ cứng rắn của phương Tây. Tư duy của phương Tây thường có khuynh hướng ít nhiều dựa trên cơ sở cá nhân, tự khằng định mình theo niềm tin của người tín hữu Thiên Chúa giáo, theo  thuyết Tự Do hoặc theo thuyết giai cấp của Mác Xít.   

11. Đấng Sáng Thế và Hoà Bình

Theo Phật giáo không có sự phân biệt giữa Đấng Sáng Thế và người được thụ tạo – một điểm chính trong Phật giáo là sự thống nhất giữa cá thể trong tất cả (và không chỉ có hình ảnh một con người đơn nhất của thế giới). Từ quan điểm lý thuyết về hoà bình, điều này có nghĩa là chúng ta phải dựa vào chính chúng ta mà thôi. Phật tử không hy vọng đạt được sự an hoà bằng cách đổi lại phải vâng lời Đấng Tối Cao, xem đây như là một phần ân huệ do Ngài ban phát. Khi nỗ lực cho lý tưởng, Phật tử cũng không bị ngăn trở giống như: ‘Nếu Đấng Sáng thế muốn có bình an, Ngài sẽ ban cho sự bình an’. Hoà bình phải là những hành động của chính chúng ta, như là một phần trong tiến trình sáng tạo thế gian được tao ra do các sinh vật hữu tình trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hoà bình không phải là quà tặng, mà là kết quả khả dĩ của một hành động tập thể có ý thức sâu xa.

12. Mối Quan Hệ Gắn Bó

Trong Phật giáo, ít có sự phân biệt giữa chủ thể và khách thể. Không phải chỉ có chúng ta quan sát thế giới mà còn có thế giới quan sát chúng ta. Chúng ta nằm trong thế giới mà còn thuộc về một thành phần của thế giới. Nói một cách cụ thể, điều này có nghĩa là có một quan hệ biện chứng đang xãy ra khi chúng ta ảnh hưởng thế giới và thế giới ảnh hưởng chúng ta. Hoà bình không phải là một cái gì đó mà chúng ta tạo ra bằng cách định hình cho thế giới, hoà bình cũng là một cái gì đó mà thế giới định hình trong chúng ta trong tiến trình. Nhiệm vụ của chúng ta là sử dụng biện chứng này một cách tích cực nhất. Và điều này không thực hiện bằng cách như phương Tây đề ra các câu hỏi thí dụ như: “Chúng ta bắt đầu từ đâu để thay đổi thế giới hoặc là để thay đổi chính chúng ta?” Phật tử không làm như vậy, nhưng bằng cách cổ vũ cho tất cả mọi tiến trình thay đổi trong cả bốn phạm vi thiên nhiên, con người xã hội và thế giới cùng chuyển động.

13.  Vô Thường

Theo tư duy Phật giáo, có tính vô thường trong vạn vật. Thế giới và vạn vật tăng và giảm mức độ, không luôn ở một dạng cứng ngắc của một cấu trúc tổng thể – nhưng đúng hơn là giống như một tiến trình dựa trên dị biệt trong mối tương tác để cộng sinh. Khi cố làm cô động lại thế giới trong một hình thái độc nhất và vĩnh cửu, nỗ lực này vô nghĩa. Dù theo bất cứ một kế hoạch nào để kiến tạo hoà bình, kế hoạch này phải là một tiến trình, không thể là một kế hoạch thuộc về cơ cấu. Theo quan điểm về lý thuyết hoà bình, kế hoạch theo tiến trình thực tế hơn là theo cấu trúc, vì đề ra chuyện lâu dài mà hoà bình có thể hình dung ra được, không chỉ cứ xét đến các đặc điểm của bốn phạm vi trong tổng quát và còn trong sự tương tác trong từng phạm vi chuyên biệt.

14. Tương Tác

Theo tư tưởng của Phật giáo, sự tương tác luôn đến từ hai chiều. Ý thức của tôi đang hướng về thế giới và thế giới đang định hình ý thức của tôi. Muốn thành đạt bất cứ điều gì, chúng ta không bao giờ cố tiến hành trên một con đường thẳng, đẩy mạnh đòn bẩy, mà quên rằng mọi tác động luôn có phản ứng. Chúng ta cũng không nên cố dùng một đòn bẩy để làm chuyển động phần còn lại của toàn hệ thống, mà đúng hơn là nên làm chuyển động từ mọi các góc cạnh trong cùng một lúc. Thay vì chỉ đẩy mạnh một chiều, tốt hơn cần phối hợp nhiều nỗ lực nhỏ, nhưng theo nhiều chiều hướng trong cùng một lúc, khởi đầu từ mọi góc cạnh của thực tại từ vật chất đến tinh thần, nhưng luôn nhớ rằng hệ thống sẽ phản ứng trong một mạng lưới phức tạp. Hoà bình không phải chỉ là bất khả phân; hoà bình, phát triển, và quân bình kinh tế là bất khả phân. Toàn bộ lý luận của hệ thống phải thay đổi theo theo tiến trình tác động và phản ứng để kiến tạo hòa bình có kết quả hơn.  

15. Mâu Thuẫn

Theo Phật giáo, thế giới có nhiều tương phản, phương cách tiếp cận có nhiều nghịch lý. Vì thế mà suy nghĩ của người Trung Quốc hiện nay có đặt ra ‘một quốc gia, hai hệ thống’, – có nghiã là vừa có Xã Hội chủ nghĩa và Tư Bản chủ nghiã trong cùng một quốc gia. Cộng Hoà Nhận Dân Trung Quốc về cơ bản là một quốc gia theo Phật giáo và có nhiều tôn giáo, nhưng chắc chắn là không phải là quốc gia theo Mác xít, với một hệ thống giáo điều thẳng tấp một chiều như phương Tây. 

Theo quan điểm lý thuyết về hoà bình, không nên chống lại tất cả mọi tương phản, cố tạo thành một hệ thống thuần túy, việc này sẽ gây ảnh hưởng. Đa dạng với mọi loại tương phản là chuyện có thể, ngay cả còn là điều mơ ước. Điểm này cực kỳ quan trọng, vì chúng ta sẽ luôn luôn sống trong một hỗn hợp của các hệ thống với những cách lý luận khác biệt. Hướng về một thực tại không có mâu thuẫn sẽ là vô nghĩa theo triết lý Phật giáo, vì Phật giáo thấy sức tác động của nguyên nhân đến từ muôn hướng.

16. Pháp Luân

Tư tưởng của Phật giáo kết hợp như một pháp luân. Nó không theo mô hình kim tự tháp và suy diễn từ những nguyên tác đầu tiên. Từ những tư tưởng dị biệt như tôi đã đề cập ở trên, thì không có một nguyên tắc nào được coi như là nền tảng hơn các nguyên tắc khác. Đứng hơn, những nguyên tắc này được kết cấu xoay quanh như một bánh xe, mà chúng ta cần tìm hiểu là mọi đường lối có thể tạo được những điểm nối kết chung (có điều nguy hiểm là dễ đưa chúng ta tới tình trạng song phương, chỉ luôn nhìn hai điểm trong cùng lúc, mà đúng ra có thể là ba, hay bốn hoặc nhiều hơn). Không có điểm nào là nền tảng hay chung quyết tạo niềm tin, mà đúng ra toàn bộ hệ thống mở ra những điểm mới, có nghĩa là ta cần những phương cách tiếp cận mới. Khi bánh xe pháp luân Phật giáo xoay chuyển qua thời gian, những điểm nối kết mới sẽ mở ra những mạng lưới mới chặt chẽ hơn về tư tưởng và hành động. 

Chung cục, tổng thể cuả pháp luân chính là vấn đề, một phương cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc nhất thể và năng động – đối nghịch với phương cách suy diễn theo mô hình kim tự tháp nhằm kết hợp với những nhận thức rời rạc hay những phát minh.  

17. Lạc Quan

Tư tưởng của Phật giáo cực kỳ lạc quan. Có Phật tính trong tất cả chúng ta, nếu chúng ta thực hiện Phật tính và tự thân nỗ lực. Không có ai ở bên ngoài khác hơn. Nhưng có sự dị biệt giữa Đại Thừa khi nhấn mạnh diệt khổ và Tiểu Thừa khi nhấn mạnh hạnh phúc. Vì thế, có lập luận cho rằng Tiểu Thừa hướng nhiều hơn về hoà bình tiêu cực, trong khi Đại Thừa chú trọng hơn về hoà bình tích cực. Vì cả hai là những thành tố của khái niệm hoà bình năng động, sự dâng hiến của Phật giáo cho thế gian phải là sự kết hợp giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa, xem cả hai phương cách tu tập như là những khuôn mẫu cho sự dị biệt, và hãy để cả hai tương tác nhau theo cách cộng sinh nhau. Đúng đây là một thách thức cho Phật giáo.

18. Tuần Hoàn.

Quan điểm Phật giáo về tiến trình có tính tuần hoàn hơn là theo một tuyến tính. Không có một bảo đảm chính xác nào rằng mọi sự thể sẽ tốt đẹp hay sẽ diễn biến tồi tệ. Có sự thăng trầm trong bốn phạm vi, sự tình có khi thăng, có khi giảm, và ngược lại, (hoàn toàn đối nghịch với Thiên đường và Điạ ngục theo thần học Thiên Chúa giáo, khi xem cả hai là điểm chung cục trong sự tiến hoá của con người, một điểm mà người ta không còn chổ thoái lui). Từ trên quan điểm lý thuyết về hoà bình, thuyết tuần hoàn có thể giúp cho Phật tử ngăn ngừa mọi lạc quan thái quá khi sự thể tốt đẹp hay bi quan cùng cực khi khi tình huống xấu đi, mở ra một vị thế trung dung trong quan điểm này. Mặt khác, đặc biệt trong Đại Thừa, có một sự lạc quan chừng mực thúc đẩy cho quan điểm tuần hoàn có yếu tố thăng tiến theo tuyến tính, như một cách chuyển động theo hình vòng xoắn.  

19. Nỗ Lực Liên Tục

Điểm chủ yếu trong triết học Phật giáo là nỗ lực tiếp nối, tự cải thiện, và tinh thần cầu tiến không ngừng, đó là những điểm tất yếu mà còn khả thi, và – trong trường kỳ -, đầy đủ. Người ta không kỳ vọng từ một hành vi thuộc về đức tin, hay do sự thuần phục hoặc ân sủng do nơi cao cả hoặc các hành vi này là hữu ích theo ý  nghĩa nào đó (nhưng có một ngoại lệ trong Phật giáo A Di Đà). Nhiều nỗ lực siêng năng là cần thiết, – một lối suy nghĩ hoàn toàn phù hợp với lý thuyết hoà bình. Hơn thế, hoà bình không phải là tình trạng tối hậu ở cuối con đường, ổn định và tự tin khi đạt được, nhưng chỉ là một nỗ lục còn tiếp nối, nếu có thể. 

20.  Niết Bàn

Và cuối cùng, mục tiêu tối hậu của Phật giáo cho con người là Niết Bàn, một nơi được coi như một khuôn mẫu để chuyển hướng trong mọi chuyển động. Khái niệm này không thể diễn dịch như tình trạng hủy diệt hay dập tắt hay các hình ảnh ẩn dụ tương tự khác trong các lối trình bày của phương Tây. Đúng hơn, nên coi Niết Bàn là một loại thực hiện lý thuyết kết hợp nhất thể trong tất cả, một loại tự thực hiện khi đạt được tinh thần Vô Ngã với tâm trạng hạnh phúc hằng cữu. Điều này hoàn toàn phù hợp với ý tuởng về hoà bình như tôi đã trình bày ở trên trong phần giới thiệu khái quát về lý thuyết hoà bình. Niết Bàn là một chuyển hướng trong chuyển động, hoà bình cũng là một chuyển hướng trong chuyển động. 

Do đó, trong một ý nghĩ nào đó, hoà bình là thiên đàng và thiên đàng là hoà bình. Biên giới được loại bỏ, khi sự kết hợp nhất thể đã đạt được. Và 19 điểm vừa nêu trên được cụ thể hoá ở điểm 20.   

Đổ Kim Thêm dịch

Bài 3: Sáu Khuyết Điểm Của Phật Giáo Làm Ngăn Trở Hoà Bình

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here