Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
Tôi học lớp ba trường huyện cách đây hơn nửa thế kỷ. Vốn liếng trí thức, văn chươxng của chúng tôi thời đó nằm gọn trong Quốc văn giáo khoa thư. Đây là một bài thơ tôi thuộc lòng từ thời đó đến bây giờ: bài Lính thú đời xưa. Bài thơ chẳng hay gì, lại không thấy đề tên tác giả. Không tác giả, có lẽ là ca dao. Mà ca dao thì đáng lẽ phải hay hơn. Nhưng đó là ý kiến của tôi về sau này. Thuở đó, thơ trong Quốc văn giáo khoa thư phần nhiều là như vậy, chẳng hay nhưng có vần có điệu, đọc lên cũng thấy thơ. Bài Linh thú đời xưa khá dài, chia thành hai phần. Bài thứ nhất:
Ngang lưng thì thắt đai vàng
Đầu đội nói dấu vai mang súng dài
Một tay thì cắp hỏa mai
Một tay cắt giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Bên cạnh đó bài thơ có vẽ hình một người đàn bà nông dân bế đứa con nhỏ, tiễn chồng ra đi. Ngày nay, người ta tiễn nhau ở bến xe, ở nhà ga, ở sân bay. Thuở trước, biệt ly diễn ra trên bến thuyền. Thuyền đi chậm, sông nước mênh mang, nhìn theo không biết bao giờ mới hút bóng.
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa
Nước mắt của ai như mưa? Của người chồng bước chân xuống thuyền? Chắc không phải, vì đàn ông đâu có khóc như vậy! Nhưng cũng có thể người chồng khóc như mưa ở trong lòng. Khóc như thế, nỗi buồn không khô được, cứ ướt mãi. Thuyền trôi trên nước, người chồng trôi trong nước mắt.
Khóc như mưa, chắc phải là người vợ. Người chồng vừa bước chân xuống thuyền thì mưa đã ào ào tuôn trên mắt người vợ đứng trên bờ nhìn theo. Người đi, người ở đều ướt sũng nước mưa. Mưa ướt sũng bến đò.
Lúc nhỏ, đọc câu thơ, tôi bùi ngùi. Lớn lên, hiểu thêm rằng biệt ly là khổ. Lớn lên nữa, già đi, lại chột dạ, thấy mình lức nào cũng như đang tiễn biệt một cái gì, tiễn một niềm tin bị cuộc đời đánh cắp, tiễn một quê hương bỗng nhiên phụ phàng, tiễn bóng câu qua cửa sổ, tiễn cả chính mình, tiễn mình trong từng phút từng giây. Nhưng đó là chuyện khác. Trở về với bài Lính thú đời xưa, đoạn hai, mà Quốc văn giáo khoa thư có ghi rõ là “tiếp theo”:
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Nhưng dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng
Khổ thay là cuộc đời lính thú! Đày ải giữa nơi đèo heo hút gió, quần quật tay chân hết sáng đến tối, anh lính muốn than một tiếng cũng không biết kêu với ai ngoài tre, dang, nứa điệp điệp trùng trùng. Tre ơi, dang ơi, nứa ơi, có biết chăng tôi đây đang khổ với tấm thân này.
Không với tấm thân… Lúc học lớp ba, tôi chưa hiểu có thân là khổ. Chỉ hiểu nỗi khổ biệt ly. Cho nên tôi biết bùi ngùi với bài thơ nhứ nhất mà không mấy rung cảm với bài thơ tiếp theo. Chỉ có một câu làm tôi thắc mắc mãi, từ nhỏ đến lớn, từ trẻ đến già, từ đó đến nay. Câu thơ thật lạ kỳ, như ở đâu bay vào bài thơ, lạ hoắc, lảng xẹt. Đó là câu cuối:
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng
Tại sao bỗng có con cá vẫy vùng trong giếng ở cuối một bài thơ nói về anh lính thú từ biệt vợ sống đày ải trên núi rừng? Giữa anh lính với con cá chẳng có một liên hệ gì cả. Cách cấu trúc của câu thơ cũng kỳ quặc: hai câu tám đi tiếp theo nhau:
Những dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng
Trong một vài bài thơ lục bát ngày xưa, có khi tác giả phá thể, chấm dứt bài thơ ở câu sáu. Nhưng nếu thế, tại sao lại không chấm dứt như thế này:
Giếng trong con cá vẫy vùng
Tại sao lại thêm chữ “nó” quái gở vào câu thơ? Không phải con cá vẫy vùng mà là con cá nó vẫy vùng. Tựa như con cá với nó là hai, có con cá và có nó ở trong giếng đùa nghịch với nhau, nó vẫy vùng nơi con cá, con cá vẫy vùng nơi nó. Quái, tại sao có con cá hạnh phúc như vậy ở đây?
Tôi chịu thua. Mà cũng chẳng ai giải thích được cho tôi. Tôi đó ai giải thích nổi! Câu thơ nhảy vọt từ chuyện khổ qua chuyện vui, không đầu không đuôi, không gốc không ngọn, chẳng nghĩa lý gì cả. Anh lính thú nhớ vợ, mơ về chăn gối ấm êm bên cạnh vợ? Anh lính thú kiệt sức giữa lúc chém tre đẵn gỗ bổng thấy lóe ra trong một cơn mê sảng hình ảnh thanh bình của giếng nước ở quê nhà? Bài thơ quá giản dị, chất phác, không cho phép tôi diễn dịch cao xa. Nhưng câu thơ nằm mãi trong đầu tôi vừa như một hình ảnh êm dịu, vừa như một vũ trụ bí mật quyến rũ, mời mọc, thách thức óc tưởng tượng của tôi. Tôi không tóm được nó, cho nên nó dẫn tôi đi lang thang.
Tôi lang thang trong thế giới thiền. Đừng bắt tôi giải thích tại sao. Trong thiền không có tại sao. Nó thế là nó thế. Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
Một ông sư hỏi Phong Huyệt: “Người nào không hiểu thì chẳng bao giờ thắc mắc; tại sao vậy?”
Phong Huyệt đáp: “Con rùa đi trên đất thì để lại vết chân trong bùn”.
Một ông sư khác hỏi Triệu Châu: “Muôn vật quy về một; vậy một quy về đâu?”
Triệu Châu trả lời: “Hôm qua, đến huyện Kinh, ta có may một cái áo nặng bảy cân.”
Có người hỏi Động Sơn: “Phật là ai?”
Trả lời: “Ba cân vải”.
Người kia đem câu nói của Động Sơn hỏi Trí Môn.
Ông này cắt nghĩa: “Một mớ hoa, một mớ lụa”. Rồi hỏi lại:
– Hiểu chưa?
– Dạ chưa hiểu.
– Tre trúc phương nam, tùng bách phương bắc.
Lại có người đem cùng câu hỏi đó hỏi Hòa Sơn: “Phật là ai?”
Trả lời: “Ta biết đánh trống, tùng tùng tùng, cắc cắc tùng.”
Vui thật là vui. Vui như thế thì hãy đọc thêm vài chuyện nữa, vài câu cuối nữa.
Có người hỏi Hương Lâm: “Bồ Đề Đạt Ma đến từ phương Tây là có ý nghĩa gì vậy?” Trả lời: “Ngồi lâu thì mỏi”.
Một ông sư hỏi Tào Sơn: “Làm thế nào khám phá ra được một sự im lặng mà không ai có thể diễn tả bằng lời?”
– Ta không khám phá ở đây.
– Thầy khám phá ở đâu.
– Nửa đêm hôm qua ta mất ba đồng tiền cạnh giường ngủ.
Câu cuối trong các chuyện thiền có khi là một bài thơ, một câu thơ. Bằng thơ, đồ đệ của Huệ Nam tả sư phụ của mình như sau:
Ông thầy già Huệ Nam
Có câu chuyện “sinh đẻ ở đâu”
Tôi biết sư phụ tôi rõ lắm
Tôi sẽ tả sư phụ ra đây
Tôi sắp tả sư phụ đây này
Con mèo biết cách bắt con chuột già.
Các ông thiền sư thi nhau điên? Có thể lắm! Nhưng càng điên lại càng hay! Hay tuyệt! Tôi đố ai có câu cuối bất ngờ hơn thế này:
Từ Minh hỏi Quế Sâm: “Nguyên lý căn bản của đạo Phật là gì?”.
Quế Sâm trả lời:
Mây trời không tụ
Trên đỉnh núi cao
Vằng vặc vầng trăng
Thanh tịnh soi mình trên sóng.
Từ Minh quắc mặt: “Thật là sỉ nhục! Tu già đời rồi mà còn hiểu bậy bạ như vậy! Làm sao thoát khỏi sinh tử luân hồi!”
Quế Sâm quỳ lạy sư phụ dạy bảo cho biết sai chỗ nào.
Từ Minh quát: “Hỏi ta đi!” Quế Sâm lặp lại câu hỏi ban nãy: “Nguyên lý căn bản của đạo Phật là gì?”. Sư phụ nghiêm trang:
Mây trời không tụ
Trên đỉnh núi cao
Vằng vặc vầng trăng
Thanh tịnh soi mình trên sóng
(Còn nữa)
C.H.T