(LQ) Huyền sử dân tộc truyền rằng, các vua Hùng dựng nước Văn Lang đến nay hơn bốn ngàn năm. Tuy nhiên sự ghi chép rõ ràng phải kể từ Đinh Tiên Hoàng xây nền tự chủ làm vua nước Đại Cồ Việt. Các triều đại chính thống: Lê – Lý – Trần – Lê – Nguyễn nối tiếp ngàn năm sau.
Nhân dịp Xuân Quý Tỵ 2013, chúng ta tìm hiểu những năm Quý Tỵ đáng nhớ trong sử sách.
Quý Tỵ 993 (Hưng Thống năm thứ 5)
Triều Tống chính thức bang giao công nhận Lê Hoàn làm vua nước Đại Cồ Việt (Giao Chỉ quận vương). Mặc dù Lê Hoàn đánh bại quân Tống để lên làm vua thay thế nhà Đinh từ năm 980
Lời bình :
Triều đình Trung Quốc thường gây khó khăn mỗi khi có sự thay đổi triều đại ở nước ta. Tuy nhiên để giữ được hòa bình, tránh họa chiến tranh cho nhân dân, vua chúa Việt Nam thường sử dụng các chính sách ngoại giao mềm mỏng trong việc bang giao.
Quý Tỵ 1293 (Hưng Long năm thứ 1)
Tháng 3, vua Trần Nhân Tông sau hai lần chiến thắng giặc Nguyên Mông quyết định nhường ngôi cho hoàng thái tử Thuyên (Trần Anh Tông) để làm Thái thượng hoàng
Lời bình:
Vua Nhân Tông vốn có chí xuất gia từ nhỏ, nhưng không được vua cha chấp thuận. Sau khi lãnh đạo quân dân chiến thắng giặc Nguyên Mông, ngài nhường ngôi cho con để có thì giờ nghiên cứu Phật pháp, sau đó quyết định vào tu ở núi Yên Tử. Ngài đã thể hiện tinh thần giải thoát đối với quyền uy, danh vọng. Trong thời gian tu hành, ngài đi khắp nước sang tận Chiêm Thành để hoằng dương Phật Pháp, xây dựng hòa bình. Dân tộc Việt đã tôn xưng ngài như một vị Phật.
Quý Tỵ 1353 (Thiệu Phong năm thứ 13)
Biên giới phía nam giặc cướp nổi dậy, triều đình cử Trương Hán Siêu vào trấn giữ Châu Hóa (Thừa Thiên Huế)
Lời bình:
Cuối triều Trần, triều đình rối loạn, biên giới phía Nam bị nước Chiêm Thành cướp bóc, quấy phá. Triều đình phải cử Trương Hán Siêu, một danh nho đương thời làm quan hết sức liêm khiết và cương trực vào trấn thủ vùng đất biên cương.
Quý Tỵ 1413 (Trùng Quang năm thứ 5)
Quân Minh chiếm nước ta, vua Trùng Quang và triều đình chạy vào Châu Hóa. Tướng giặc Trương Phụ đem quân đuổi theo, bắt được vua và các tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị giết chết, nhà Trần chấm dứt.
Lời bình :
Than ôi, một trăm năm trước tổ tiên họ Trần oanh liệt vẻ vang chiến thắng Nguyên Mông. Đến nay con cháu hư hỏng, khiến cho cơ nghiệp tổ tông tan nát, đất nước phải chịu cái nhục trở thành quận huyện của phương Bắc hơn 20 năm!
Quý Tỵ 1473 (Hồng Đức năm thứ 4)
Mùa xuân, vua cùng triều đình làm lễ cày Tịch điền để tỏ ý khuyến khích nhà nông. Vua ban chỉ dụ:” Một thước núi, một tấc sông của nước ta lẽ nào lại nên vứt bỏ? Các ngươi phải cương quyết giữ gìn chớ để bọn giặc lấn dần. Nếu họ không nghe còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ai dám đem một thước một tấc non sông của Tổ tiên làm mồi cho giặc thì tội phải giết chết .”
Lời bình :
Lời dụ của vua Lê Thánh Tông ghi lại trong sử sách là tiêu chuẩn định công buộc tội đối với người lãnh đạo quốc gia ngàn năm sau vậy.
Quý Tỵ 1533 (Nguyên Hòa năm thứ 1)
Nguyễn Kim tìm được Lê Duy Ninh dòng dõi nhà Lê, tôn lên làm vua (tức Trang Tông Dụ hoàng đế), phất cờ kêu gọi nhân dân “phò Lê , diệt Mạc”. Từ đây mở ra thời kỳ “Nam Bắc triều” , gây nên cuộc nội chiến lâu dài, tranh giành quyền lực thống trị giữa các họ Lê – Mạc – Trịnh – Nguyễn , chia cắt đất nước hơn hai trăm năm.
Lời bình :
Nho giáo đề cao lý tưởng trung quân, về sau nho sĩ đồng hóa vua với nước. Chính niềm mê tín đó, đã gây họa hại rất lớn mỗi khi có sự thay đổi triều đại. Khiến cho cả dân tộc rơi vào cảnh chiến tranh – nội loạn, đất nước suy tàn gặp nạn ngoại xâm.
Quý Tỵ 1593 (Quang Hưng năm thứ 16)
Tiết chế Trịnh Tùng dẫn đại quân từ Thanh Hóa ra Bắc đánh thắng nhà Mạc, rước vua Lê trở về Thăng Long ngự chính điện ban thưởng công thần, đại xá thiên hạ. Nguyễn Hoàng được tấn phong Thái úy Đoan Quốc công, trở thành chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.
Lời bình:
Lấy chiêu bài phù Lê, mà hai họ Trịnh Nguyễn câu kết với nhau để diệt Mạc. Nhưng khi thành công vua Lê bị biến thành tượng gỗ ngồi trên ngai vàng. Quyền hành trị nước lọt vào tay hai họ Trịnh, Nguyễn chia nhau.
Quý Tỵ 1653 (Thịnh Đức năm thứ 1)
Chúa Nguyễn Phước Tần mở mang đất đai đến vùng Phan Rang lập thành dinh Thái Khang.
Lời bình:
Trong cái rủi, hóa ra cũng được cái may. Để tồn tại xây dựng cơ nghiệp, các chúa Nguyễn đã nỗ lực khai phá vùng đất phương Nam nhanh chóng. Nhờ đó mới có một nước Việt Nam hoàn chỉnh như ngày nay
Quý Tỵ 1773 (Cảnh Hưng năm thứ 34)
Quân khởi nghĩa Tây Sơn chiếm được thành Quy Nhơn mở đầu cho sự sụp đổ của triều đình chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Tiếp theo là cuộc nội chiến tranh giành ngai vàng cho đến năm 1802 mới chấm dứt.
Lời bình:
Tám đời chúa Nguyễn gầy dựng cơ nghiệp đến đời chúa thứ chín là Nguyễn Phúc Thuần bị quyền thần thao túng. Khiến cho triều đình thối nát , quan lại tham nhũng tràn lan. Nhân dân hết sức phẫn uất. Nhờ đó, ngọn cờ Tây Sơn khởi nghĩa vừa phất lên thì hàng vạn dân nghèo hưởng ứng phá đổ cơ đồ họ Nguyễn.
Quý Tỵ 1833 (Minh Mạng năm thứ 14)
Nhiều cuộc nổi dậy chống lại triều đình Huế, nhưng đặc biệt quan trọng là cuộc biến loạn Lê Văn Khôi ở miền Nam (1833 – 1834) , gây tổn thất nghiêm trọng cho đất nước.
Lời bình:
Chính sách phân quyền của vua Gia Long đến thời Minh Mạng thì bị bãi bỏ. Vua Minh Mạng muốn xây dựng một chế độ quân chủ tập quyền chuyên chính. Nên nông dân bắt đầu nổi dậy từ Bắc vào Nam. Kết quả, không lâu sau khi vua Minh Mạng mất triều Nguyễn phải đối đầu với cuộc xâm lăng của thực dân Pháp.
Quý Tỵ 1953
Kể từ ngày 2 tháng 9 năm 1945 cách mạng thành công chấm dứt chế độ quân chủ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dân tộc Việt Nam nỗ lực kháng chiến chống thực đân Pháp, kết quả chấm dứt chiến tranh bằng hiệp định Genève ký kết ngày 20/07/1954.
Quý Tỵ 2013
Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn thử thách của thời đại để giữ gìn hòa bình và phát triển đất nước. Hướng ra biển Đông chúng ta ngâm lớn bản Tuyên ngôn của Tổ tiên:
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rõ ràng phân định tại sách trời
Cớ sao giặc dữ sang xâm phạm
Bây hãy chờ xem chuốc bại nhơ
(Tương truyền bài thơ của danh tường Lý Thường Kiệt đọc lên để khích động quân sĩ chống giặc Tống vào năm 1076, tại cửa sông Như Nguyệt)
T.Đ.S
Tham khảo:
Đại Việt sử ký toàn thư – Nội các quan bản
Hoàng Việt giáp tý niên biểu – Nguyễn Bá Trác , SG 1963.