Các nhà văn châu Âu ngoài phần nghiên cứu triết học ra còn đọc kinh thánh Cựu ước và Tân ước. Các nhà văn Việt Nam hôm nay, tôi để ý thấy một số anh em không coi trọng kho báu tư tưởng phương Đông mà thế giới đang tìm về bổ sung kiến thức. Và nhất là ít đi chùa, ít hiểu đạo Phật trên góc độ nhân văn.
Đọc lại thơ ông cha, tôi có một nhận xét không có một nhà thơ tên tuổi nào lại không có một đôi bài thơ của một ngôi cổ tự ký thác tâm sự với một nhà sư. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Ngô Thì Nhậm… thường giao du kết bạn với nhà sư, đã có khá nhiều bài thơ về những ngôi chùa.
Đi chùa hay nói theo cách hôm nay quan hệ với nhà chùa với giới tu hành theo đạo Phật, đã trở thành sinh hoạt thân thuộc của nhà thơ Việt các thế kỷ trước để bồi dưỡng tâm linh. Bởi, dưới mái các ngôi chùa hôm qua thường ẩn náu các nhà sư uyên bác mà không ít cũng là những nhà thơ Đi chùa là đi tìm cái thanh khí nuôi dưỡng cảm xúc cho thơ.
Một lẽ nữa, các ngôi cổ tự vốn là những danh thắng u nhã tô điểm cho cảnh quan đất nước, có sức thu hút những tâm hồn tìm về cội nguồn. Một trong nhiều cội nguồn mang dấu ấn đặc thù dân tộc – ngôi chùa không chỉ là biểu tượng của đạo Phật mà còn là cửa ngõ của một dòng lịch sử tư tưởng văn hóa mang đậm nét Việt Nam.
\Nhà thơ Việt khó giữ được hơi thở dân tộc nếu như chưa tắm mình vào những di sản ông cha, thơ các thiền sư thời Lý – Trần như Mãn Giác, Huyền Quang, Tuệ Trung…
Chúng ta thường băn khoăn về tính hiện đại của thơ Việt Nam. Tính hiện đại của nhà thơ nằm trong thông điệp của nhà thơ gửi cuộc đời. Lâu nay có một số người hiểu thơ nghiêng về ngôn ngữ, cách thể hiện, hình thức – thiên về cái “vỏ bọc” của nhà thơ. Có chắc những vần thơ đương đại đã hiện đại?
Ảnh minh họa: Chùa Keo (báo Giác Ngộ) |
Đọc bài thơ Pháo đài của thi hào Nguyễn Du viết ra khi nhận chức Cai bạ (tương đương với chức Tuần phủ) tỉnh Quảng Bình sau những năm dài Trịnh Nguyễn phân tranh, tôi đã giật mình về tư tưởng nhân văn trong câu thơ chữ Hán “Nhĩ lai bất quí sát nhân công” Dịch nghĩa ra là: “Từ nay việc chém giết người không còn khuyến khích”. Câu thơ viết bằng chữ Hán theo thể thơ cổ mà sao không cũ, vẫn hiện đại! Câu thơ như một tiếng reo vui của người trong cuộc, nói lên nguyện ước của dân chúng hai bờ sông Gianh phải chịu bao lầm than điêu đứng của chiến tranh.
Năm 2000, năm chuyển giao hai thế kỷ là năm quốc tế hòa bình, phổ biến văn hóa hòa bình. Chúng ta cần giới thiệu bài thơ chữ Hán Pháo đài của Nguyễn Du. Tôi tin khi bài thơ dịch ra tiếng nước ngoài sẽ chinh phục được bạn đọc về tư tưởng hiện đại của nhà thơ Việt sống cách đây trên 200 năm, cảnh báo chiến tranh khiến con người không còn nhân tính.
Cái luôn luôn thiếu của người làm thơ là trau dồi kiến thức. Để trở thành thi sĩ đâu chỉ có tâm hồn, bài thơ đầu tay (premierjet) lóe sáng. Phải tự thân rèn luyện suốt đời. Nhà thơ Mỹ Walt Whitman (1819-1892) trong bài thơ “Bài hát chính tôi” đòi hỏi mình nắm bắt “những biến cố mới nhất, những khám phá, những phát minh mới nhất, những xã hội, những tác giả cổ kim” một cách thường nhật.
Tôi tự thấy mình chưa khám phá được bao nhiêu tư tưởng nhân bản giàu có ở thơ ông cha. Lâu lâu, tôi lại “trò chuyện” với người xưa, được người xưa tiếp sức, tôi tìm đến ngôi cổ tự. Với tôi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Ngô Thì Nhậm… cũng là ngôi “cổ tự” của thi đàn dân tộc. Cái cầu nối giúp chúng ta hòa nhập đồng hành với các dòng thơ nhân loại bước vào thế kỷ mới…
(VietNamNet)