Lời đầu:
Bài này nói lan man về những vấn đề nhiều khi thấy không ăn nhập gì với nhau, những lãnh vực mà mới nghe tên đã thấy “ngán”, tuy nhiên người viết lại không phải là một “chuyên gia” trong bất cứ một lãnh vực nào được đề cập dưới đây, vậy mà dám gõ lọc cọc vào bàn phím để thành một cái bài dài mấy trang giấy thì cũng thật là cả gan. Vậy cái gì, cái thủ phạm nào đã xui khiến chuyện này vậy? – Xin thưa, đó là chú vọng tưởng, cái chú này quả thật là ghê gớm, đạo hữu nào mới bắt đầu tập tễnh tu tập sẽ bị nó cho nếm mùi ngay, nó lôi mình đi không thể nào cưỡng được, nhiều khi đang ngồi ở nhà nó lôi tuốt mình tới nhà ông … Obama lúc nào không hay! Vậy xin quý độc giả nếu rảnh thì cùng với người viết đi theo chú này xem chú ấy dẫn mình tới đâu?
Những chỗ trích dẫn nguyên văn được in chữ nghiêng.
1_Kinh Lăng Nghiêm và vũ trụ song song.
Khái niệm về vũ trụ song song (hay đa vũ trụ) là giả thuyết về sự tồn tại của nhiều vũ trụ, trong đó có vũ trụ ta đang sống. Đây không phải là chuyện tưởng tượng của những nhà văn viết chuyện khoa học viễn tưởng mà là một trong những đề tài nghiên cứu rất hấp dẫn của các nhà vật lý lý thuyết thế kỷ XXI.
Ta thử coi chuyện này có liên quan gì đến Phật giáo hay không?
Trong kinh Lăng Nghiêm (1) Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lỵ xét chỗ tu hành của 25 vị Đại bồ-tát và A-la-hán để lựa chọn cho ngài A-nan và chúng sanh đời sau một pháp môn phương tiện nào tu dễ thành tựu, ngài Văn-thù-sư-lỵ dựa vào uy thần của Phật, đáp lại bằng bài kệ (trích một phần):
(…) Hư-không sinh ra trong đại-giác,
Như một bọt-nước sinh trong bể;
Các nước hữu-lậu, như vi-trần
Đều nương hư-không, mà phát-sinh;
Bọt-nước diệt, vốn không hư-không,
Huống nữa là, hình-tướng ba cõi (…)
Theo sự ước tính của các nhà khoa học thì vũ trụ ta đang sống chứa khoảng 200 tỷ (200 000 000 000) thiên hà, mỗi thiên hà lớn nhỏ khác nhau chứa khoảng từ 10 triệu (10 000 000) tới 100 ngàn tỷ (100 000 000 000 000) ngôi sao, thiên hà chứa mặt trời mà chúng ta đang sống (dải Ngân Hà) có khoảng từ 200 tới 400 tỷ ngôi sao, các ngôi sao lại có thể kéo theo một bầu đoàn thê tử những hành tinh và vệ tinh ăn theo nữa. Đó là chỉ kể những phần ta biết chỉ chiếm khoảng 5% vũ trụ, còn là 95 % là vật chất tối và năng lượng tối mà hiện nay còn chưa được biết (2).
Như vậy nếu coi các sao, hành tinh, vệ tinh là những thế giới hữu lậu (có sanh, trụ, dị, diệt) trong vũ trụ thì chúng đúng là hình ảnh của những vi trần (bụi nhỏ) lăng xăng trong bầu hư không. Vậy mà theo bài kệ trên, bầu hư không này ở trong biển đại giác chỉ như một bọt nước sanh trong bể cả, ta có thể nói trong bể cả có bao nhiêu giọt nước thì trong biển đại giác có bấy nhiêu vũ trụ song song! Quả là không thể nào tưởng tượng nổi, cái từ “hằng hà sa số” thế giới (thế giới nhiều như cát sông Hằng) mà ta thường thấy trong kinh Phật có lẽ cũng chỉ là cái từ tạm gượng đặt mà thôi.
2_Kinh Lăng Nghiêm và computer
Trong kinh Lăng Nghiêm (3) có đoạn ngài Phú-lâu-na thắc mắc, hỏi Phật:
– Bạch Thế-tôn, nếu như hết thảy các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới, vân vân… trong thế-gian, đều là tính thanh-tịnh bản-nhiên Như-lai-tạng, thì làm sao bỗng-nhiên lại sinh ra các tướng hữu-vi như núi, sông, đất liền, thứ lớp dời-đổi, trước sau quanh-lộn (…)
Phật dạy:
(…) Trong tính không đồng, không khác, nổi dậy thành ra có khác; khác với cái khác kia, thì nhân cái khác đó, mà lập-thành cái đồng. Phát-minh cái đồng, cái khác rồi, thì nhân đó, mà lập ra cái không đồng, không khác. Rối-loạn như vậy, đối-đãi với nhau sinh ra lao-lự; lao-lự mãi phát ra trần-tướng, tự vẩn-đục lẫn nhau; do đó, đưa đến những trần-lao phiền-não. Nổi lên thì thành thế-giới, lặng xuống thì thành hư-không; hư-không là đồng, thế-giới là khác; cái không đồng, không khác kia, thật là pháp hữu-vi (…)
Câu trả lời của Phật gồm có phần giải thích nguyên nhân và phần kết quả, ở đây chỉ trích phần kết quả, bạn nào muốn coi đầy đủ thì coi phần dẫn của chú thích 3, nhưng xin nói trước với các bạn là không dễ đâu, nếu không được những vị cao tăng giảng giải thì cũng khó mà hiểu được (4).
Trong thế giới quan của kinh Dịch ta cũng thấy có một sự tương tự, ban đầu là Thái cực rồi phân thành Lưỡng nghi, rồi Tứ tượng, Bát quái, thành 64 quẻ dịch rồi từ đó biến đổi không cùng.
Tóm lại nếu “diễn nôm” cho dễ hiểu thì ban đầu tạm gọi là 1, rồi sau đó phân thành 2, thành 4 rồi thành 8 ………
Nghe thì nghe và tin thì tin, vì làm sao ta có thể nghi ngờ lời nói của các bậc thánh nhân được, tuy nhiên nếu có một ví dụ “cập nhật” thì có lẽ sẽ dễ dàng cho chúng ta hơn.
May thay chúng ta sống ở thời đại internet, tôi thử liên kết chuyện này với nhau, các bạn nghe coi có lọt lỗ tai không nhé?
Môn tin học (và kết quả là internet, computer) đúng là một cuộc cách mạng vĩ đại của loài người, tuy vậy cơ bản của nó chỉ là sự “phân biệt” (đúng, sai), (có, không), (đồng, khác)… và được tượng trưng bằng hai số 1 và 0. Bất cứ một cái gì cũng có thể quy về một tổ hợp của hai số này. Từ hai số này nó biến hóa ra tất cả chúng sinh, thế giới. Bạn không tin ư? Bạn thử gõ một nút trên bàn phím thì bạn muốn cái gì nó sẽ hiện ra cái đó ngay. Bạn muốn coi phim bộ Hàn Quốc ư? Chỉ cần “click” một cái, bạn sẽ gặp ngay một ông chủ tập đoàn giàu có, thế lực, nhưng cá với các bạn chỉ chút xíu nữa thì thế nào ổng cũng bị tai biến mạch máu não hoặc nhồi máu cơ tim rồi nằm liệt trên giường cho mà coi, hoặc một ông bố vất vả nuôi một đứa con cưng rồi bỗng nhiên một hôm phát hiện ra đó là con … ông hàng xóm. Bạn muốn thấy hằng hà sa số thế giới không? Cũng chỉ click một cái, hằng hà sa số thế giới sẽ được bạn thấy tận mắt (5).
3_Adam, Eva, và tội tổ tông
Bây giờ lan man sang tới kinh … Thánh, đọc tới đây chắc có nhiều bạn rủa thầm “tay này đúng là dân xạo sự, biết gì về đạo Chúa mà nói”. Nhưng như đã nói ở lời đầu, cái vọng tưởng của tôi nó cứ lôi tôi tới kinh Thánh. Tôi thì chưa đọc kinh Thánh, kiến thức của tôi về đạo Chúa cũng chỉ như bất cứ một người bình thường nào khác, nghĩa là cũng biết đại khái là ban đầu Chúa tạo ra Adam và Eva là thủy tổ loài người, sống ở vườn địa đàng, 2 người chẳng mặc quần áo vì không biết phân biệt trai gái để mà xấu hổ. Tôi lẩn thẩn nghĩ cái vườn địa đàng này chắc không thể nào ở cái xứ Canada được vì mùa đông ở đây lạnh khủng khiếp thì làm sao có thể vô tư suốt ngày chạy lông nhông được, nó chỉ có thể ở những vùng gần xích đạo thôi.
Nhưng sướng mà không biết sướng, Adam và Eva bị một con rắn (Satan) dụ dỗ, bất tuân mạng lệnh của Chúa bằng cách ăn trái cây biết điều thiện và điều ác, từ đó chàng và nàng mới biết thế nào là trai gái, biết xấu hổ, mới kiếm vài ba chiếc lá để che những chỗ cần che, bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, sinh con đẻ cái, và có lẽ do cái “gen” di truyền mà loài người phải gánh chịu cái tội tổ tông của 2 vị này.
Các bạn nghe câu chuyện này có thấy cái gì bất ổn không? Nó có vẻ khó tin phải không? Nhưng vấn đề là ở chỗ nào?
Theo tôi nghĩ nó khó tin vì chúng ta đã phạm phải một cái lỗi mà trong nhà Phật gọi là “y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết” (6), nếu kinh nói thế nào mà ta giải thích y xì (nghĩa đen) như vậy thì oan cho ba đời chư Phật, giống như nói dân mình thuộc con rồng cháu tiên, tổ tiên mình sinh ra trong một cái bọc trứng rồi phải nhờ đến bác sĩ thẩm mỹ mổ ra thì thật là không ổn.
Tương tự như vậy, trong câu chuyện trên nếu “y kinh … Thánh mà giải nghĩa thì đúng là oan cho ba … ngôi Chúa”. Theo tôi nghĩ Adam và Eva chỉ là những hình ảnh tượng trưng, ban đầu ở trong vườn địa đàng (Như Lai tạng, Thái cực) thì không có chuyện gì, nhưng khi ăn trái cây nhận thức thì mới biết phân biệt, mới biết chia thành hai (thiện ác, nam nữ, đồng khác, lưỡng nghi, số 1 và 0), và khi đã chia thành hai thì kể từ đó mới biến hóa tùm lum thành cái thế giới, cái computer và cái lũ người ngợm như chúng ta đây, báo hại chúng ta phải trôi lăn trong vòng lục đạo mãi không có ngày ra. Thật đúng là:
Ma đưa lối, quỷ đưa đường,
Lại tìm những chỗ đoạn trường mà đi (7).
Tóm lại cái tội tổ tông chỉ là cái sự khởi vọng tưởng phân biệt, chia hai mà thôi. Điều này ta thấy pháp tu của thiền tông (pháp môn bất nhị) nhắm thẳng vào việc chấm dứt cái vọng tưởng phân biệt, chia hai, chấm dứt luân hồi để trở về cái Như Lai tạng, Thái cực, địa đàng, bản lai diện mục.
4_Thiền tông
Để dẫn chứng điều trên ta lấy một vài ví dụ:
a_Lục tổ Huệ Năng khai thị cho Huệ Minh bằng câu: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Huệ Minh ngay câu nói đó liền đại ngộ (8).
b_Ngay mở đầu bài Tín Tâm Minh của Tam tổ Tăng Xán có câu:
Chí đạo vô nan,
Duy hiềm giản trạch.
HT Thích Thanh Từ giảng:
Chí đạo là chỗ tột cùng, vô nan là không khó, duy là chỉ, hiềm là không bằng lòng, giản trạch là lựa chọn. Chí đạo tột cùng không khó, mà khó ở chỗ còn lựa chọn. Chí đạo có chỗ gọi là chơn tâm, Phật tánh, đại đạo. Ðối với chơn tâm, Phật tánh chúng ta muốn sống được không phải khó. Sở dĩ khó là tại chúng ta quen lựa chọn, nghĩa là đối cảnh liền sanh tâm phân biệt tốt xấu, hay dở… Ðó là trái với đạo. Vì vậy nên nói Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch, tám chữ này nói đến chỗ tột cùng, muốn sống được với tâm thể chơn thật không khó khăn gì, chỉ đừng chạy theo tâm lựa chọn. Vì chọn lựa là tâm hư vọng, nếu không sống với tâm hư vọng thì tâm chơn thật hiện ra (9).
c_(Pháp Loa) hỏi:
– Hữu cú vô cú như bìm leo cây, khi ấy thế nào?
Ngài (Sơ tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông) bèn nói kệ: (10)
Bài kệ này rất dài, gồm 9 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, đầu mỗi đoạn chỉ lập đi lập lại một câu duy nhất là “hữu cú vô cú” và 3 câu kế mỗi đoạn là hậu quả của việc chấp vào sự phân biệt “hữu, vô”. Bạn có thể coi toàn bộ bài này theo chú thích 10 dẫn.
Để giảng bài kệ này, mở đầu, HT Thích Thanh Từ nói:
“Hữu cú vô cú” là câu có câu không. Nói có nói không là đại biểu cho tất cả lời nói đối đãi có không, phải quấy, hơn thua…; những gì hai bên đều nằm trong nghĩa có và không này.
Sau khi giảng hết bài kệ HT kết luận:
Như vậy chúng ta thấy việc tu hết sức là giản đơn. Nói thì nhiều kinh sách nhưng đều gốc ở không chấp hai bên có không phải quấy (11).
Bạn có thể coi toàn bộ bài giảng này theo chú thích 11 dẫn.
Lời cuối:
Cám ơn bạn đã kiên nhẫn đọc tới đây, có thể đã có rất nhiều bạn cũng có quan điểm giống như trên bởi vì tôi thấy sự liên kết này nó đến rất tự nhiên, không có một sự cố gắng, gượng ép nào cả. Tuy nhiên khi một ý kiến được đưa ra thì cũng sẽ có ý kiến trái chiều. Có thể có bạn nói người viết đã đem “râu ông nọ cắm lộn vào cằm bà kia”, hoặc có thể có bạn là một chuyên gia, sinh hoạt rành rẽ trong một lãnh vực nào, bây giờ thấy người ta ghép chung với một lãnh vực khác lại khởi ý tưởng “thấy người sang bắt quàng làm họ”.
Nhưng như đã nói ở lời đầu, người viết không phải là chuyên gia trong bất cứ một lãnh vực nào, và cũng không có ý định làm tài lanh “nhảy xổ” vào những chỗ mà chỉ những chuyên gia mới có tư cách nói được (12). Người viết chỉ là một người mới bắt đầu tập tễnh tu tập, bị vọng tưởng nó lôi không thể nào kìm được nên viết (gõ) bậy bạ, nếu có điều gì không phải xin bạn đọc đánh hai chữ “đại xá” cho.
——————————————————————————————-
Chú thích:
(1) Quyển Sáu, mục V, đoạn III, chi I, trang nhà:
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_5-50_6-3_14-1_15-1_17-179_4-753/#nl_detail_bookmark
(2) Trích dẫn số liệu lẻ tẻ trong một số trang Wikipedia.
(3) Quyển Bốn, mục VII, đoạn II tới V, trang nhà:
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-751_5-50_6-3_17-179_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
(4) Một vài trang nhà có phần giảng giải kinh này:
http://thientongvietnam.net/Media/BaiGiang.asp?ID=A0301 (HT. Thích Thanh Từ giảng)
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-6317_5-50_6-1_17-16584_14-2_15-2/#nl_detail_bookmark (HT. Tuyên Hóa giảng)
(5) Vào thăm trang nhà của các đài thiên văn lớn, ví dụ:
http://hubblesite.org/newscenter/archive/releases/2009/31/image/a/format/web_print/
http://www.eso.org/public/archives/images/publicationjpg/eso1242a.jpg
(6) Câu này được truyền tụng trong nhà Phật, không biết có nằm trong một bài kinh nào không? Bạn nào biết rõ xin chỉ giùm, nhưng tôi nghĩ có lẽ nó không ở trong một bài kinh nào mà đây chỉ đúc kết những kinh nghiệm trong quá trình truyền bá đạo Phật mà thôi.
(7) Nguyễn Du, Truyện Kiều.
(8) Thích Thanh Từ, Kinh Pháp Bảo Đàn Giảng Giải, nxb. tpHCM, 1999, trang 20, dòng (12-15).
Hoặc vào trang:
http://thuongchieu.net/index.php/chuyende/kinhphapbaodan/3290-hanhdo
(9) http://thientongvietnam.net/kinhsach-thike/index-KLNL.html (phần Luận – Ngữ Lục, số thứ tự 26: Tín Tâm Minh Giảng Giải).
(10) HT. Thích Thanh Từ, Tam Tổ Trúc Lâm Giảng Giải, Thiền viện Thường Chiếu, 1997, trang (61-65).
Hoặc vào trang:
http://www.truclamtaythien.com/kinhsach-thike/dirs/tamtotruclam/unicode/p1-d2-c3.html
(11) HT. Thích Thanh Từ, sđd, trang (106-115). Hoặc vào cùng trang nhà trên.
(12) Ví dụ với những sách khoa học phổ thông, đã qua rồi thời kỳ mà chỉ cần đọc vài ba cuốn sách cũng có thể viết được. Những sách loại này bây giờ cũng phải do những nhà bác học danh tiếng viết ra mới có giá trị, như Stephen Hawking, Trịnh Xuân Thuận, Brian Greene…