Ma khảo là ma quỉ thử thách tâm đức, phẩm hạnh của người tu để xem có xứng đáng đắc đạo cùng chăng. Thường thì Chánh Tà tương khắc. Hễ Đạo khai thì Tà khởi. Đạo không ma khảo, Đạo khó thành; ma không Đạo khai, ma không được dịp mở cơ thạnh vượng.
Ma khảo có nhiều cách, đại khái như :
– Mạo danh Tiên Phật, dối ban huyền diệu cốt mê hoặc người tu phải xa đường chánh giáo.
– Giục người thấy sắc đẹp mê sa, thấy tiền bạc hay danh lợi thì ham muốn.
– Hóa ra nhiều việc lạ lùng quái gở làm cho người tu sợ hãi mà bỏ dở công phu.
– Chiếu theo sở dục của con người mà cám dỗ, tức là đánh ngay chỗ yếu của mỗi người.
– Bày bố những khó khăn gay cấn nguy hiểm làm cho người tu thối chí ngã lòng.
Các Đấng Tiên, Phật đều nói trước rằng: “Vô ma khảo bất thành Đại Đạo, Đạo bất khảo bất thành Phật.”
Xưa, Đức Chúa Jésus, Đức Phật Thích Ca, trước khi thành đạo, phải chịu cho Satan, Quỉ vương, khảo đảo đủ cách, khi không lay chuyển được thì Quỉ vương mới chịu phục và các Đấng ấy mới thành đạo.
Đức Khổng Tử cũng bị khảo đảo 7 ngày giữa biên giới nước Trần và nước Thái. Đường Tam Tạng và ba đồ đệ cũng bị 81 tai nạn khảo đảo mới được thành Phật.
Vượt qua được một lần khảo đảo là trình độ tâm linh tiến hóa lên một bực. Cho nên, nhờ Ma khảo mà các Đấng định phẩm vị cho người tu hành.
Từ cổ chí kim, chư Phật, Tiên, Thánh đều phải trải qua con đường Ma khảo mới chứng được Đạo. Người tu mà chưa biết Ma khảo thì chưa biết giá trị tu hành.
Chúng ta tin chắc rằng, mỗi lần bị khảo mà không ngã là mỗi lần chúng ta được lên một nấc thang tấn hóa đó, nhưng không phải chỉ bị Ma khảo một hay hai lần là đủ, mà chúng ta sẽ bị Ma khảo nhiều lần, bởi vì con đường tấn hóa của chúng ta có nhiều cấp bực.
Mặt khác, thời ĐĐTKPĐ, cửa Đạo mở rộng, nhưng chân giả khó phân. Có người chơn tu, có người mượn danh Đạo tạo danh đời, làm cho những người chơn tu bị mắc oan. Cho nên các Đấng thiêng liêng cho Ma khảo để lựa chọn người chơn tu, loại ra những kẻ giả tu. Kẻ giả tu, sau cơn thử thách thì họ đều hiện rõ cái nguyên hình giả tạo.
Đức Chí Tôn cũng đã có nói trước rằng: “ Thầy làm ra mặt các con coi ”. Cho nên, nếu không có Ma khảo thì làm sao phân biệt hai điều chơn giả, chánh tà ? Vậy người tu hành phải chịu luật khảo thí và phải kiên tâm trì chí lướt qua mọi cơn thử thách.
Về Ma khảo, có thể chia ra 4 cách khảo:
– Nội khảo, – Ngoại khảo,
– Thuận khảo, – Nghịch khảo,
1/.Nội khảo: Khi cầu đạo rồi, quyết tâm từ bỏ đường đời để lập thân hành đạo thì người tu thường bị tai nạn, hay bịnh hoạn.Do đó, nhiều người rất sợ, không muốn vào Đạo và lại còn biếm nhẻ rằng, người tu hành đạo đức mà sao bị tai nạn liền liền ! Điều nầy không có gì là nghịch lý, khi chúng ta hiểu Đạo thì sẽ thấy rất rõ ràng.
Đức Chí Tôn cũng có dạy trước rằng
Ức lòng dễ tỏ đặng cùng ai,
Hiền đức mà sao chịu khổ hoài.
Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,
Cũng là vay trả luật xưa nay. (TNHT)
Chúng ta tự hỏi tại sao có chuyện kỳ lạ như vậy ?
Bởi vì các chủ nợ oan nghiệt thấy vị nầy tu hành rồi, e sau nầy đắc đạo thì rất khó đòi được nợ, nên xúm nhau đến đòi nợ liền liền.
Người tu cần phải lập chí nhẫn nại, cam lòng chịu đựng, không trách móc than van, không oán hờn, vì các món nợ oan nghiệt ấy là của mình và do mình gây ra từ nhiều kiếp trước. Chúng ta cần trụ vững đức tin nơi Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, ráng lo lập đức lập công để tiêu trừ bớt oan khiên nghiệp chướng, vượt qua các cơn khảo đảo. Dần dần, các oan nghiệt sẽ bớt đi, và con đường đạo sẽ được êm chơn tiến bước.
2/.Ngoại khảo: Khi mới bước chân vào đường Đạo thì thường bị thân nhân phản đối, bạn bè hủy báng, hàng xóm chê cười, vv . . . đều thuộc ngoại khảo. Có khi bị người lấy oán báo ơn, bị xuyên tạc, bị hàm oan, bị vu khống, vv. . . khiến người tu không đủ kiên nhẫn để nhịn nhục, nên nổi giận chống đối quyết liệt.
Người tu phải ráng giữ vững đức tin, dùng sự ôn hòa và tận tụy giúp đỡ mọi người, nhứt là những người chỉ trích mình hay làm hại mình, cầu xin Ơn Trên hộ trì giúp sức cho mình sớm vượt qua cơn khảo đảo.
Đức Chúa đã nói: Kẻ nào đánh vào má bên trái của ta, ta đưa má bên phải cho nó đánh luôn một thể.
Đức Phật Di-Lạc cũng có nói: Có người chửi vào mặt Lão chuyết, Lão chuyết cười hì hì; nếu nhổ nước miếng vào mặt ta, cứ để vậy cho nó khô, khỏi cần phí công lau chùi, làm cho kẻ nhổ cũng được vui.
3/.Thuận khảo:
Có hai mặt: Thánh và phàm.
– Mặt Thánh: Được bậc bề trên khen thưởng, được kẻ hậu học ủng hộ, dần dần trở nên đắc ý, hợm mình, rơi vào con đường danh của Đạo mà trở thành ngạo mạn, bỏ quên phần đạo tâm ở phía sau lưng.
Khi được bậc trên thương yêu, hậu học xem trọng, thì càng phải tự cảnh tỉnh lấy mình. Tài bao nhiêu, đức bao nhiêu mà được ân sủng như vậy ? Trong lòng phải luôn luôn cảm tạ ơn đề bạt của các bậc huynh tỷ bề trên, thương yêu đoái hoài đến đàn hậu học, khiêm tốn nhúng nhường, nâng đỡ đàn hậu học, làm gương mẫu cho đàn em noi bước. Đó là cách biến Thuận khảo thành bậc thang tiến hóa của tâm hồn.
– Mặt phàm: Buôn bán phát đạt, thăng quan tiến chức, thành công mọi mặt, vợ chồng nặng tình ân ái khó lìa. Trong hoàn cảnh hân hoan đắc ý như thế, người tu dần dần trọng phàm khinh Thánh, biến tu đạo thành tu đời, mà quên đi lời Minh thệ lúc ban đầu.
Muốn thoát vòng tục lụy nầy, người tu phải biết rằng, những cái thành công đắc ý đó là do cái nhân tốt mà mình đã gây ra trong kiếp trước. Nếu không lo vun trồng cái nhân tốt ấy, thì chỉ hưởng một thời gian rồi hết. Cho nên càng đắc thế càng giàu sang thì càng phải lo lập công đức, tôn kỉnh Thần Thánh, giúp đỡ mọi người về vật chất hay về tinh thần trong một tình thương yêu chơn thật.
4/.Nghịch khảo:
Có hai mặt: Thánh và phàm.
– Mặt Thánh: Người tu gặp các bậc bề trên vô tình, có công không được thưởng, vô cớ bị phiền trách, đối với cấp dưới thì không được hậu học kính trọng. Bao lâu khổ công hy sinh lo cho Đạo nghiệp, nay bị nghịch cảnh khảo duợt, làm người tu nản lòng thối chí.
Khi gặp Nghịch khảo như thế, chớ nên sanh lòng căm hờn, mà nên luôn luôn xét lấy mình, vì Đạo thuộc vô vi, tấm lòng son sắt có Trời cao soi xét, việc khen thưởng hay chê bai nơi cõi trần nầy là không đáng kể.
Luôn luôn giữ lòng trong sạch không đổi, càng bị hàm oan, càng chịu đựng trong quyết tâm tu hành thì càng được cao thăng phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.
Gương xưa như nàng Thị Kính, rồi sãi Kỉnh Tâm, chịu hàm oan khổ nhục biết bao nhiêu mà kể, nhưng vẫn âm thầm chịu đựng, không than không oán, vẫn quyết lòng tu niệm, mới đắc thành Phật vị.
– Mặt phàm: Khi phát tâm hành đạo, cha mẹ không thích, vợ con ngăn cản, . . . , việc làm không thuận, cấp trên khinh khi, cấp dưới lờn mặt, đó là Nghịch khảo.
Gặp cảnh nầy, ta phải an phận, kiên nhẫn lấy đức cảm hóa mọi người, rồi dần dần hoàn cảnh cũng thay đổi, trở nên thuận bề vui vẻ.
Sau khi cầu đạo lo việc tu hành thì việc làm ăn thất bại, vợ chồng gây gổ, con cái bất bình, . . . đều thuộc về Nghịch khảo.
Người tu phải hiểu thấu suốt lý nhơn quả. Vợ chồng hay con cái đều là duyên nợ, duyên tốt hay xấu, dài hay ngắn, đều là nhân đã kết tập từ kiếp trước. Tiền tài, nhà cửa, ruộng đất, chỉ là thân ngoại vật, sinh ra không mang đến, chết rồi cũng không mang theo được.
Hiểu rõ như thế, thì sự vinh hoa, đắc thất như một giấc chiêm bao. Trong lòng cứ thản nhiên như đám mây bay trên trời, hay như dòng nước chảy.
Đường đạo đã trải qua, chúng ta thấy rõ việc tu hành gặp không biết bao nhiêu trở lực, nào là người hữu ý hay vô tình kích bác, cho đến bà con cật ruột cùng bạn thân yêu buổi trước mà nay thấy chúng ta tu hành, họ cũng đem lòng nhạo báng, nào là kẻ gây điều khó dễ mong phá hoại việc tu.
Chúng ta lại gặp nhiều nghịch cảnh: tiền tài thiếu thốn, tật bịnh triền miên, hoặc những nỗi bất bình, những điều thống khổ, để khiến chúng ta ngã lòng thối bước, nếu không nhẫn nại và vững đức tin.
Phần trên vừa trình bày chi tiết tất cả hình thức Ma khảo người tu, nhưng không phải người tu nào cũng bị Ma khảo như các trường hợp kể trên. Ma chỉ khảo chỗ nào yếu kém của người tu mà thôi. Đây có thể xem là cái tài giỏi của Ma vương, vì nó biết người tu nầy yếu chỗ nào, người tu kia yếu chỗ kia, để mà khảo đúng ngay chỗ đó cho người tu dễ rớt.
Trong các đề tài: Danh, Lợi, Quyền, Nộ, ố, Ai, Dục, Tửu, Sắc, Tài, Khí, người tu yếu về chữ nào thì nó biết nó khảo ngay thứ đó. Người tu nào còn ham tiền thì nó dùng tiền vàng để thử, người tu nào còn ham sắc thì nó dùng sắc đẹp để thử, người tu nào còn háo danh thì nó dùng chức nầy tước nọ để thử, vv . . .
Ma không hình tướng, tùy theo lòng ham muốn của người mà nó hiện ra, nếu thấy sắc dậy lòng tà thì bị con ma sắc thừa cơ làm hại. Nếu chưa làm chủ được tánh nộ thì mỗi khi phát nộ, nghiến răng trợn mắt, đỏ mặt tía tai, nói năng bẩu lẩu, . .thì đó là hiện thân của con ma nộ vậy.
Con người nơi cõi trần tiêm nhiễm quá nhiều vật chất qua nhiều kiếp, nên lục dục thất tình luôn luôn dấy động. Nhờ Ma khảo mà biết được chỗ yếu kém của mình để cố gắng sửa đổi, dần dần bản tánh hóa thuần mà hợp với Thiên tánh.
Mỗi khi bị khảo, không nên sanh lòng oán hận, mà phải thuận tùng tiếp nhận, nhẫn nại vượt qua, vì mỗi lần khảo là mỗi lần bớt được một số nợ oan nghiệt của kiếp trước. Một khi đã vượt qua một cơn khảo đảo thì đường Đạo dễ đi hơn.
Tóm lại, cơ Đạo có Nội khảo, Ngoại khảo, Nghịch khảo, Thuận khảo, là những phương pháp trui rèn lòng người tu hành cho ra cao thượng. Vàng không trui lửa, ai biết vàng cao; ngọc chẳng giồi mài, ai hay ngọc quí.
Trong các cơn khảo đảo, người tu cần phải giữ hai điều cốt yếu sau đây:
– Giữ vững đức tin, tin tưởng mạnh mẽ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, là hai Đấng Cha Mẹ chung thiêng liêng.
– Giữ chặt cái tâm, không vọng động, cho an nhiên thanh tịnh, không ham không muốn, không gì hết ráo, thì mọi sự thử thách của quỉ ma chỉ như luồng gió thoảng.
Mỗi lần bị Ma khảo, mỗi lần vượt qua là mỗi lần đạo tâm tiến lên một bực cao hơn, và lần lần tiến hóa lên những bực cao dần, cuối cùng thì được trở về ngôi vị bất thoái chuyển
Trong cuốn Phật học Quần nghi Thích Minh Quang dịch) có đoạn: Nguyên nhân có được thần thông là:
– Một là do tu mà có được
– Hai là do phúc báo mà được.
Quỷ thần nói chung thường có thiên nhãn với trình độ sâu cạn khác nhau. Đó chính là do phúc báo mà có được. Quỷ thần do không có nhục thể trói buộc, chỉ có sức linh hoạt động, nên giảm bớt đi sự chướng ngại của vật thể.
Trong 10 ma chướng thuộc phần tưởng ấm. Hầu hết các ma chướng này đều do các quỷ thần theo sự sai khiến của Thiên ma nhập vào người khác để quấy rối người tu hành. Những người khác có thể chỉ là người bình thường nhưng khi bị quỷ thần nhập thì có những khả năng thần thông không khác người đã trải qua nhiều kiếp tu hành.
Khi quỷ thần nhập vào người thì người bị nhập sẽ có những thần thông sau:
– Người đó có thể thay đổi hình dạng. Có thể phát hào quang (giống quái quỷ)
– Thường hay nói đức Phật mới ra đời ở chỗ này hay chỗ kia (giống bạt quy)
– Tự cho mình là Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nói được kệ, biết tụng kinh, làm cho người khác có một số thần thông như biết được suy nghĩ của người khác…(giống mị quỷ).
– Tự cho là đã vào được Niết bàn.Nói được kinh pháp có uy thần làm cho người nghe kính phục (gống cổ độc quỷ vá áp thắng quỷ).
– Có thể biến thân như các vị tu tiên và thiện trí thức.
Thường nói về về kiếp trước…(giống lệ quỷ)
– Chỉ rõ được các nghiệp trước của người khác. Ngã mạn, chê bai người tu hành, bới móc mọi người. (giống đại lực quỷ)
– Có thể biến hoá thành các chúng sinh khác. Nhìn xuyên qua được lòng đất (giống quỷ thần núi, thần rừng, thần thổ địa…)
– Có thể đi trên lửa, đi trên nước giống như đi trên mặt đất. Bay trên hư không. Vượt qua tường không ngăn ngại…(giống sơn tinh, hải tinh, phong tinh,hà tinh, thổ tinh…)
– Ẩn hiện trong hư không, Hiện thân rỗng suốt như lưu ly. Nói không có luân hồi, không có nhân quả (giống tinh khí nhật nguyệt, bác thực kim ngọc, chi thảo, lân phụng, quy hạc làm tinh linh)
– Có thần thông thông đi về ngàn dặm trong giây lát. Tự cho mình là người tạo ra thế giới là vị Phật đầu tiên (giống ma trụ thế tự tại thiên)
Qua các khả năng thần thông của người bị ma nhập để quấy rối người tu hành với các hiện tượng ngoại cảm hiện nay ở Việt Nam chúng ta sẽ thấy có một số trường hợp khá tương đồng.
Nhìn xuyên qua lòng đất. Nghe được, nhìn được thế giới thân trung ấm. Chữa bệnh bằng nước trắng và hai đồng xu. Bắt mạch người sống có thể nhìn nắm được thông tin người quá cố. Vẽ được hình ảnh người chết thông qua dữ liệu của người sống…
Theo HT.Tuyên Hoá thì khi bị các quỷ thần sống lâu thành tinh nhập vào người không chỉ có 10 thứ thần thông đã kể ở trên mà có đến vài chục, vài trăm khả năng thần thông do thế giới ngạ quỷ là vô cùng vô tận.
Vì sao người bị quỷ thần nhập có khả năng này, theo Phật học quần nghi “Những kẻ linh môi, người bị quỷ thần mượn làm công cụ dựa vào, nhờ sức thiên nhãn này của quỷ thần nên có thể trông thấy những thứ mà người bình thường không thấy được. Cho nên người có thiên nhãn, có thể biết trước được vị lai. Năng lực thiên nhãn càng mạnh, thì càng thấy được lâu xa, và mức độ tinh xác cũng càng cao”.
Đối tượng của thiên ma là các vị tu hành thoát khỏi các cõi dục giới. Trong kinh Thủ Lăng nghiêm, Đức Thế Tôn nói: “Ông sẽ bị quấy nhiễu bởi một loại ma từ ngũ ấm của ông, hoặc là ma từ cõi trờì, hoặc mắc quỷ, thần, hoặc gặp ly, mỵ. Nếu tâm không sáng suốt, ông sẽ nhận lầm kẻ giặc là con.”
Phần sau cùng của kinh Thủ lăng Nghiêm, đức Phật nói rõ về những ma sự mà người tu hành gặp phải trong khi hành thiền.
HT. Thích thông lạc (hiện tượng 3) được cho là 10 đệ tử của HT. Thích Thanh Từ là một hiện tượng bị cho là vướng vào ma chướng trong quá trình hành thiền.
Nếu xét theo 50 mươi ma ấm trong kinh thủ Lăng nghiêm thì khả năng HT. Thích Thông Lạc bị vướng vào phần Thụ ấm (10 ma thụ ấm).
Khi đã phá được sắc ấm, tâm đã duyên với cảnh vô phân biệt, hành giả thiền thấy được được hình ảnh của chân như (thấy tâm của chư Phật) nhưng chỉ như cái bóng trong gương.
Hành giả “tự bảo là đã đủ rồi, không căn cứ gì. Bỗng có lòng đại ngã mạn phát ra như thế cho đến lúc lòng mạn, quá mạn và mạn quá mạn hoặc lòng tăng thượng mạn hoặc lòng tỵ liệt mạn một thời đều phát ra. Trong tâm còn khinh thập phương Như lai huống nữa là các bậc dưới như Thanh văn duyên giác. Ây gọi là thắng giải quá cao không trí tuệ để tự cứu….Nếu nhận là bậc chứng thánh thì một phần giống ma đại ngã mạn vào trong tim gan…”
Tôi có xem một số băng giảng kinh của HT. Thích Thông Lạc, thật sự mộng mị và khó hiểu. Hoà thượng phủ nhận thế giới vô hình cho đến thế giới Tây phương cực lạc.
Những lời giải thích giống như người bị tẩu hoả nhập ma vậy.
( Tác động của TG vô hình vào cõi giới con người (2)
……..ngài tuyên hóa có một sadi, chú bé này có một năng lực là chưa học gì về ngành y nhưng chú có khả năng chữa bệnh rất giỏi. Mọi người ai cũng kính nể chú và coi chú như một vị thần sống.
Sau một thời gian bỗng chú mất hết khả năng và lăn ra bệnh, bệnh rất nặng không ai có thể chữa được. Chính chú cũng không chữa được bệnh của mình.
Có người mách chú đến chỗ HT.Tuyên Hoá. Thông qua ngũ nhãn của mình, HT.Tuyên Hoá đã biết được khả năng chữa bệnh của chú không phải do sự tu tập mà có, mà do yêu tinh, vọng lượng nhập vào.
Vì kiếp trước chú là những người lên đồng, hầu bóng (giống như ở Việt Nam) nên trong kiếp này ngay từ khi còn nhỏ chú đã bị quỷ thần nhập vào. Khi quỷ thần rời bỏ thì chú cũng không còn khả năng và bị bệnh rất nặng
Trong chú Lăng Nghiêm có nêu danh nhiều vị vua của quỷ thần, trong đó có quỷ dạ xoa (nhanh lẹ), quỷ la sát (kinh sợ), quỷ thủ hồn, quỷ thủ thi, quỷ tỳ xá già (hớp tinh khí), quỷ cưu bàn trà (làm người tê liệt, còn gọi là bóng đè, ma đè), quỷ đại thân, quỷ điên, quỷ xú (thối), quỷ phú đan na (có mùi hôi độc), quỷ nhiệt, quỷ hàn, quỷ ảnh, quỷ âm nhạc…
Ngoài ra còn có quỷ ăn hoa, quỷ ăn nhau sinh sản, quỷ ăn thai, quỷ ăn hài nhi, quỷ ăn mỡ, quỷ ăn đèn, quỷ ăn ngũ cốc…
Sự biến hóa của chúng, quả là vô cùng vô tận, vô lượng vô biên.
Trong kinh Phật thuyết Ma Ni La Đản Đức thế Tôn nói, Có Quỷ trong quốc gia, có Quỷ trong núi, có Quỷ trong rừng, Có Quỷ ở mộ cỏ, có Quỷ ở bãi tha ma, có Quỷ trong mồ mả đắp cao, có Quỷ trên mặt đất, có Quỷ trong nước, có Quỷ bên bờ nước, có Quỷ trong lửa, có Quỷ bên lửa, có Quỷ Bắc Đẩu, có Quỷ trong hư không, có Quỷ trong giếng ở chợ, có Quỷ là người chết (Tử Nhân Quỷ), có Quỷ là người sống (Sinh Nhân Quỷ), có Quỷ đói khát, có Quỷ trong nhà, có Quỷ ở trong thân, có Quỷ ở ngoài thân , có Quỷ ăn cơm, có quỷ lúc nằm nghỉ….
Trong bộ kinh “Petakkathà – Ngạ quỉ kinh giải”, có kể ra 24 thứ ngạ quỉ đầy đủ chi tiết. Trong một một số kinh điển nói, Ngạ quỷ đạo còn gọi quỷ thần đạo. nói loài quỷ do nhân tạo trung phẩm thập ác mà được sinh, chia làm hai hạng: hạng có uy phước và hạng không uy phước.
Đây là những chúng sinh do tạo nghiệp nhân bất thiện từ thuở tiền sinh mà cảm lấy thân ngạ quỷ.
Loại quỷ thần uy phước cũng có cung điện, thân tướng trang nghiêm nhiều kẻ tùy thuộc, hoặc thọ dụng những trân vị cam lồ, hoặc được người thờ cúng. Loại này chia làm hai hạng: chính thần và tà thần.
Bậc chính thần thì giữ lòng chân chính hay giúp đỡ nhân gian, hạng tà thần tâm niệm quỷ quyệt không chân thật, hoặc đa dâm đa sát, thường làm tổn hại mọi người. Loài quỷ không uy phước thì vất vả, ở chỗ âm u, thường đói khát, hoặc ăn những đồ bất tịnh.
Xứ sở của quỷ thần có hai nơi: chính trụ và biên trụ. Biên trụ là những chỗ như mé biển, triền núi, rừng bụi, đình miếu, hang hố, mồ mả cho đến vườn nhà cùng các nơi bất định. Chính trụ là xứ sở riêng của loài nghiệp nặng, thuộc về thế giới ngạ quỷ. Biên trụ là xứ sở của các quỷ thần nghiệp nhẹ hoặc có phước nghiệp, thuộc về hạng ở lẫn lộn trong nhân gian.
Thế giới của quỷ là vô cùng vô tận, phần lớn quỷ lại sống chung với người chỉ khác về không gian, tham sân si lại rất nặng nên tác động của thế giới này vào cõi giới con người là rất lớn và khó nhận biết.
Từ lâu trong dân gian Việt Nam thường có câu: Nghịch như quỷ. Ma đưa lối quỷ dẫn đường. Xấu như quỷ …để chỉ những hành vi mang tính quỷ của con người.
Vì trong tính cách người và tính cách quỷ có nhiều điểm tương đồng lẫn lộn nên khó phân biệt ranh giới đâu là hành động của con người, đâu là hành động bị tác động của thế giới quỷ.
Đức Phật hỏi A Nan (Ananda) rằng:”Người dân trong Thiên Hạ chẳng được an ổn là do việc gì? Do vạn dân trong Thiên Hạ có nhiều tật bện.
Bệnh đau nhức là do nhóm nào ? Do đau nhức khi rời khỏi Thai mẹ, đo đau vì tim bị thương, đau đầu, mắt mờ, chẳng thể ăn uống … đều do Ma Quỷ gây ra.
(Tập hợp từ nhiều nguồn)