Quang lâm chứng minh, cử hành buổi lễ có Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Phương – Phó Pháp chủ HĐCM GHPGVN, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế; chư tôn đức Giáo phẩm Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh TT. Huế; chư tôn đức Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh TT. Huế; chư tôn đức Tăng Ni các Tự viện, Niệm Phật Đường cùng quý Đạo hữu Phật tử.
Mở đầu buổi lễ, Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Phương đã tiến hành niệm hương bạch Phật. Hòa thượng Thích Huệ Ấn – Thành viên HĐCM GHPGVN, Giáo phẩm Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh TT. Huế cùng chư tôn thiền đức đã cử hành Nghi lễ cầu nguyện, Sái tịnh và Nghi thức đặt đá khởi công xây dựng.
Hệ thống Bảo tháp được xây dựng trên khuôn viên đất rộng 3,200 m2 tọa lạc tại phường An Tây, thành phố Huế, trong đó bao gồm Bảo tháp Tổ sư Minh Hoằng Tử Dung cao 8m và 4 Bảo tháp các Đệ tử của Ngài. Trước đây, Bảo tháp của Tổ sư Minh Hoằng Tử Dung được xây dựng trong khuôn viên chùa Từ Đàm, nhưng sau đó do Pháp mở đường Nam Giao cắt vườn chùa làm hai mảnh, nên tháp của Tổ Tử Dung phải di dời qua gởi tại khuôn viên chùa Báo Quốc. Đến nay, duyên lành hội đủ, Hòa thượng Thích Hải Ấn – Trú trì chùa Từ Đàm đã tiến hành xây dựng khu Bảo tháp, sau khi hoàn thiện sẽ thỉnh Tổ an vị tại đây.
Tổ sư Minh Hoằng Tử Dung (? – ?)
Chùa Ấn Tôn – Từ Đàm – Huế
Đối với Phật giáo Huế thì Tổ Minh Hoằng Tử Dung là vị Sơ Tổ của Thiền phái Tử Dung – Liễu Quán ở Đằng trong. “Chùa Từ Đàm: Ở trên gò ấp Bình An. Tương truyền chùa do Tử Thông Hòa thượng dựng, lại có tên chùa Ấn Tôn”.
Lời ghi chép quá đơn sơ, lại có phần sai nữa. Tử Dung chứ đâu phải là Tử Thông? Những tấm bia đá dựng ở chùa Chúc Thánh – Quảng Nam, lại chỉ nói Ngài là: “Người Đại Thanh, qua An Nam, trác tích Thuận Hóa, lập chùa Ấn Tôn”.
Tuy nhiên, một sự may mắn là tại chùa núi Phụng Sơn ở phủ Bình Khang còn có một bản Chánh Pháp Nhãn Tạngkhắc vào giữa tháng 5 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), và trong quyển Liệt Tổ thiền truyện của ngài Bổn Quả Khoáng Viên khắc tại Trung Quốc, sau các Đại sư ở Thuận Hóa trùng khắc và tục biên; một bản Chánh Pháp Nhãn Tạng của ngài Chơn Kim Pháp Lâm soạn năm 1889 (Hiện chùa Viên Thông – Huế tàng bản) đã giúp chúng ta biết được các chi tiết sau:
Vào cuối đời Minh, tông Lâm Tế rất long thịnh ở Thiên Đồng Sơn và Khánh Sơn. Tại Thiên Đồng Sơn có phái Thiên Đồng Viên Ngộ; từ chùa Thiên Đồng có ngài Thông Thiên được phong làm Quốc sư hiệu là Hoằng Giác gọi là Quốc sư Thông Thiên Hoằng Giác, ở vào đời thứ 31 dòng Lâm Tế. Ngài này truyền thừa theo kệ của ngài Vạn Phong Thời Ủy; chúng tôi gọi là “kệ chùa Thiên Đồng”:
祖 道 戒 定 宗
方 廣 證 圓 通
行 超 明 實 際
了 達 悟 真 空
Phiên âm: Tổ Đạo Giới Định Tông,
Phương Quảng Chứng Viên Thông,
Hạnh Siêu Minh Thật Tế,
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không.
Tạm dịch: Giới định là tông chỉ,
Rộng khắp chứng thần thông;
Hạnh vượt sang bờ Thật,
Tỏ ngộ đến chơn không.
Đồng thời Ngài cũng biệt xuất kệ và ra khai sơn chùa Thiên Khai. Kệ của Ngài là:
道本原成佛祖仙
明如紅日灑中天
靈原廣閏慈風普
照世眞燈萬古傳
Phiên âm: Đạo bổn nguyên thành Phật Tổ tiên
Minh Như Hồng nhựt lệ trung thiên
Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ
Chiếu thế chơn đăng vạn cổ truyền;
Tạm dịch: Đạo vốn thâm sâu Phật Tổ Tiên,
Sáng soi tuyệt diệu cõi trung thiên;
Nguồn linh thấm rộng làn gió tốt,
Đèn tuệ chiếu khắp vạn cổ truyền.
Cũng đồng thời Ngài tự đổi Pháp húy thành Đạo Mân Mộc Trần; đó là kệ chùa Thiên Khai.
Ngài viên tịch vào triều Lê, không rõ năm nào chỉ thấy ghi ngày 16 tháng 11.
Có thể Ngài đã qua Nam với nhiều Ngài có chữ “Minh” đứng trước, các Ngài có thể ở chùa Thiên Đồng, có thể ở chùa Thiên Khai, chùa Báo Tư v.v… Nhưng đều đi một lần với ngài Nguyên Thiều Hoán Bích vào năm 1676 hoặc 1677, cùng đổ bộ lên Quy Ninh. Ở đây, chúng tôi sẽ nói đến mấy vấn đề cần yếu sau:
Trong bộ sách Việt Nam Phật giáo sử lược (1942), đã được in lại nhiều lần, Hòa thượng Mật Thể cho rằng: Tổ Minh Hoằng Tử Dung qua Thuận Hóa một lần với ngài Thạch Liêm vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái (1687-1691) để ngồi trên ghế Thập Sư ở giới đàn chùa Thiên Mụ; sau giới đàn Ngài ra lập chùa Ấn Tôn. Đoạn này, rất cần đến sự đính chính của hậu thế chúng ta.
Thứ nhất, ngài Thạch Liêm qua Thuận Hóa năm Ất Hợi (1695) đời Nguyễn Phúc Chu, chứ không phải qua vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái.
Thứ hai, đại giới đàn năm Ất Hợi (1695) mở tại chùa Thiền Lâm chứ nhất định không phải là ở chùa Thiên Mụ.
Thứ ba, tất cả chư Tăng trong đại giới đó đều là người Trung Quốc đệ tử của Thạch Liêm Thiền sư chứ không có ai khác, cho nên Tổ Minh Hoằng Tử Dung không can dự đến giới đàn này.
Cũng trong sách nói trên, Hòa thượng Mật Thể đã dịch câu này trong văn bia: “Nhâm Thìn hạ, Hòa thượng lai quảng tấn toàn viện” thành ra như thế này: “Năm Nhâm Thìn (1712) mùa hạ, Hòa thượng vào Quảng Nam dự lễ Toàn Viện” (?). Có lẽ Hoà thượng Mật Thể đã theo bản Pháp văn của Louis Sogny trong bài Le premier Annamite… ở B.A.V.H. Số 3 năm 1928, khi nói đến Tổ Từ Lâm. Thực sự, có lẽ câu ấy muốn nói rằng mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712) ấy, lễ an cư kiết hạ được tổ chức rất quy mô ở thiền viện Thiền Lâm thuộc vùng đất rất rộng trước mặt chùa Từ Đàm hiện nay; có thể chư Tăng ở Thuận Hóa – Quảng Nam vân tập về đây và toàn viện đã cung thỉnh ngài Tử Dung ở Ấn Tôn gần đó đến làm Thiền chủ. Cách chấm câu ấy có thể là: “Hòa thượng lai, quảng tấn toàn viện” tức là Hòa thượng đến, coi sóc nhắc nhở chu đáo mọi việc và sách tấn, khuyến khích chư Tăng để khai lễ cho chư Tăng vào hạ.
Phương pháp hoằng giáo của sơ Tổ Minh Hoằng Tử Dung đúng là phương pháp của chư Thiền Tổ trong phái Lâm Tế chánh tông; tức là trao công án cho đệ tử “tham”. Công án Tổ Minh Hoằng Tử Dung đã trao cho Tổ Liễu Quán là:萬法歸一一歸何處 “Vạn Pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?”. Yếu chỉ của Thiền Lâm Tế là đốn ngộ. Không kể lâu hay mau, khi vị Đại sư tham công án đến tột cùng, hoát nhiên ngộ đạo. Vị Thiền sư ngộ đạo sẽ biểu lộ bằng một hành động mà thế nhân thấy rất kỳ quặc, khác thường; hoặc làm một bài “kệ” để trình Tổ. Thấy đệ tử đạt, Thiền Tổ liền ấn chứng, người ta còn gọi là “ấn khả”, và chính vị Thiền sư được ấn khả đó là Tổ kế thế của vị Tổ trước.
Tổ Liễu Quán đắc Pháp ở Sơ Tổ Minh Hoằng Tử Dung đúng theo truyền thống Lâm Tế chánh tông ấy. Theo thuyết truyền thì trong kỳ kiết hạ năm Nhâm Thìn (1712); sau khi Tổ Liễu Quán trình Kệ “Dục Phật” – rất tiếc là bài kệ này không được chép lại – Sơ Tổ Minh Hoằng liền “ấn khả“. Từ giờ phút được ấn khả thì “y bát” của Minh Hoằng Tử Dung Sơ Tổ tại Ấn Tôn Hoàng Long Sơn, đã đi về núi Thiên Thai. Sau một thời gian Thiền phái Tử Dung – Liễu Quán phát triển rực rỡ khắp cõi Thuận Hóa và lan ra cả Nam Hà từ thế kỷ thứ XVIII, kéo dài cho đến tận ngày nay.
Tháp của Tổ Minh Hoằng Tử Dung trước đây được xây dựng trong khuôn viên chùa Từ Đàm, nhưng sau đó do Pháp mở đường Nam Giao cắt vườn chùa làm hai mảnh, nên tháp của Tổ Tử Dung phải di dời qua gởi ở góc vườn chùa Báo Quốc. Chúng ta hy vọng một ngày nào đó có điều kiện sẽ thỉnh tháp của Tổ quay lại sân chùa Từ Đàm như thuở ban đầu vốn có của nó.
Một số hình ảnh của buổi lễ:
Bản vẽ phối cảnh tổng thể công trình
Quảng Lạc