Lễ tế Âm hồn Thất thủ Kinh đô – bữa quảy cơm chung (còn gọi là Lễ Truy niệm Chiến sĩ trận vong và đồng bào nạn vong năm Ất dậu) là một nét văn hoá đặc trưng của nhân dân Thừa Thiên – Huế. Lễ này bắt nguồn từ sau chính biến ngày 23.5. năm Ất dậu (05.7.1885) Kinh đô Huế thất thủ.
Sau Hiệp ước Quý Mùi (1883) và Hoà ước Giáp thân (1884) thực dân Pháp đã gần như đã khống chế được triều đình Huế. Toà Khâm sứ, cơ quan đầu não chính trị của Pháp do một viên Khâm sứ đứng đầu, được đặt bên Hữu ngạn sông Hương nhằm giám sát và can thiệp vào mọi chuyện của triều đình Huế trên phần đất còn lại trong uy quyền của vương triều này. Bên cạnh đó còn có khoảng 200 lính mã tà ma ní thuộc lực lượng quân đánh thuê của Pháp đóng tại đồn Mang Cá nhỏ (tức Tiểu trấn Bình Đài).
Không cam tâm dưới sự áp bức đó, phái chủ chiến của triều đình Huế mà đứng đầu là Tôn Thất Thuyết quyết tâm đánh đuổi Pháp. Ông đã liên lạc với phong trào Văn thân chống Pháp, huấn luyện binh sĩ, tích trữ súng đạn, lập chiến khu Tân Sở, một Kinh thành thứ 2, ở Quảng Trị, chuẩn bị cho một cuộc đánh úp lực lượng Pháp tại Huế. Khi Toàn quyền De Courcy đổ bộ lên Thuận An với một lực lượng hùng hậu gồm 19 sĩ quan và 1024 lính, hắn đòi hai quan Phụ chính đại thần phải qua Toà Khâm trình diện. Tình hình bang giao Việt Pháp đã đến hồi quá căng thẳng. Phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường và Hộ bộ Thượng thư Phạm Thận Duật sang Toà Khâm nhưng không thuyết phục được De Courcy, kể cả việc nhận lễ vật của Thái hậu Từ Dũ. Thực tâm, De Courcy xem Kinh thành Huế như một miếng mồi cần nuốt chửng.
Sau khi Pháp từ chối thoả hiệp với triều đình Huế về các nghi lễ ngoại giao (mở cửa giữa Ngọ Môn để đón cả sứ đoàn De Courcy, vua Hàm Nghi phải xuống ngai tiếp sứ thần Pháp…) mà triều đình Huế cho rằng đó là một sự miệt thị uy quyền của vương triều và có ý đồ chiếm Kinh Thành Huế như từng chiếm thành Hà Nội, thành Gia Định, ông Thuyết đã quyết định tấn công Pháp trước. Đêm 22.5 năm Ất dậu (04.7.1885) ông Thuyết cho nã súng thần công vào Toà Khâm và tấn công vào đồn Mang Cá. Đạn thần công phần lớn rơi xuống sông Hương, chỉ có một số ít làm cháy các lều trại nhỏ chung quanh Toà Khâm. Đội quân đánh vào Mang Cá cũng tháo chạy trước súng và lựu đạn của bọn lính đánh thuê (mã tà ma ní) đồn trú tại đây và pháo từ chiến thuyền của Pháp đậu trên sông Hương.
Rạng sáng, quân thuỷ lục Pháp từ trấn Bình Đài phản công theo đường Hàng Bè (bây giờ là đường Đào Duy Anh & Huỳnh Thúc Kháng). Đến cống Thanh Long ngoài (tức cầu Hàm Tế) bị đánh chận bởi lính Phấn Nghĩa, giặc Pháp rẽ theo lối mòn dành cho voi đi sang cống Lương Y trong Thành Nội, sang đường Lê Văn Hưu và tiến theo đường Âm Hồn (nay là đường Lê Thánh Tôn) đánh thẳng lên khu Tam Toà và Lục Bộ, tiến về cửa Hiển Nhơn, đánh vào Đại Nội. Trên đường đi, giặc Pháp đốt nhà chẻ cửa, cướp phá, giết chóc hãm hiếp không từ một ai. Chúng xua đàn bà trẻ con đi trước làm bia đỡ đạn. Trướcsức kháng cự của quân ta, giặc Pháp quay qua tiến chiếm Kỳ Đài và treo cờ Tam tài của Pháp. Đồng thời đạn pháo từ tàu chiến Pháp bắn vào Thành Nội, Hoàng thành và cung điện nhiều nơi bị cháy sập. Quân triều đình dưới quyền chỉ huy của Đề đốc Hộ thành Trần Xuân Soạn và Hữu quân Đô thống Hồ Văn Hiển rút lui cố thủ trong Đại Nội. Sau đó, lính thuỷ Pháp từ Toà Khâm cũng sang, đốt chợ Đông Ba và đi vào cửa Thượng Tứ đã bỏ ngỏ, ra sức chém giết dân lành. Khi quân triều đình rút đi theo đoàn Ngự đạo thì bọn Pháp càng tha hồ giết chóc, cướp phá và thiêu đốt khắp nơi, trong Đại Nội cũng như ngoài Thành Nội.
Theo nhà truyền giáo H. De Pirey trong bài “Một thủ đô phù du: Tân Sở” (đăng trong Tập san “Những người bạn cố đô, Tập I, năm 1914”, NXB Thuận Hoá, tr.224) quân ta ước chừng 3 vạn (?) nhưng vũ khí quá thô sơ toàn gươm giáo mác để cận chiến. Dẫu vậy, quân Phấn Nghĩa vẫn gan dạ chiến đấu, bỏ mình vô số và đành rút lui cố thủ trong Đại Nội. Cuối cùng, ông Thuyết quyết định đưa triều đình kể cả Lưỡng Tôn Cung theo cửa Chương Đức rồi theo cửa Hữu xuất giá ra khỏi Kinh Thành. Đoàn Ngự đạo qua cầu Bạch Hổ (tức cầu Kim Long), lên ngả chùa Linh Mụ, vòng qua Trường Thi (làng La Chữ) ra Quảng Trị. Sau đó ông Thuyết đưa vua lên Tân Sở, kết hợp với các lãnh tụ Văn Thân, ban hịch Cần Vương, kêu gọi toàn dân đánh Pháp. Trong hoàn cảnh rối ren này như rắn mất đầu, dân chúng, lính tráng, quan lại, thợ thầy… hoảng loạn tìm đường chạy trốn, chen chúc qua các cửa thành chạy về miền quê hầu tránh sự tàn sát như điên dại của lính đánh thuê. Số lớn thì chết bởi súng đạn, lưỡi lê của giặc, số thì chết bởi nhà cháy, giày đạp lên nhau, ngã xuống hồ ao, rơi khỏi tường thành. Tổn thất của phe ta kể cả dân chúng rất lớn.
Theo TS Nguyễn Văn Vịnh (Báo Người Lao động ngày 10.9.2007) thì “…11 giờ ngày 5-7-1885, Courcy điện về chính phủ Pháp: “Ngôi thành đã ở trong tay chúng ta cùng với 1.100(?) khẩu đại bác. Quân đội chúng ta tuyệt vời. Thương vong không đáng kể”. Về phía quân Pháp có 11 người chết và 62 người bị thương, trong khi đằng trước mặt họ là từ 1.200 đến 1.500 xác người Annam phải chôn cất hay đem thiêu… Tướng Prudhomme báo cáo: “Xác của 1.500 người Annam cho thấy những thiệt hại của kẻ thù ít nhất cũng phải gấp đôi thế, vì theo tập quán họ đã mang đi rất nhiều, và mang tất cả những người bị thương đi, vì họ sợ chúng ta sẽ cắt xẻo hay đối xử tàn nhẫn… Do không thể chôn cất hết những người Annam chết, người ta đã vứt một phần vào các kênh đào, và phần còn lại thì đem hỏa thiêu. Nhưng sự thối rữa của một số lượng lớn xác chết như vậy, lại do thời tiết nóng làm cho thối rữa mạnh hơn, đã làm ô nhiễm cả thành phố, và trong một thời gian dài nữa, người ta đã phải hít thở một thứ không khí sặc mùi hôi thối”.
Trong tác phẩm “Huế 1885” nhà văn Thái Vũ đã tả lại cảnh Kinh thành Huế vào ngày ấy: “Trời gần sáng. Đại bác giặc các nơi bắn dồn dập vào nội thành. Nhà cháy! Đàn bà, trẻ nít kêu khóc dậy lên khắp nơi. Phía ngoài thành, giặc cũng đốt nhà dân, đốt chợ Đông Ba, đót từ Bao Vinh đến cầu Hàm Tế (tr.311)…Bọn Mẹt-xin-gie bắn vào đám đông như điên như cuồng..Chúng bắn xối xả, bắn vào những người đang chạy về phía chúng, quần nhau với chúng. Bắn vào những người đang chạy toả khắp nơi. Bắn vào đám đàn bà contrẻ đang hoảng hốt kêu khóc. Bắn vào những người đã chết. Nhà cháy. Cây cối sụp đổ…(tr.318) Nhiều nhà phía trong này vẫn còn ngút lửa, nhất là phía kho vũ khí, kho chứa thuốc súng. Dinh bộ Binh và dinh bộ Lại của hai quan Quận và Tướng Thân thần lửa vẫn cao ngọn. Xác người chết rải khắp đường khắp ngõ. Xác gục bên hồ, ngổn ngang bên bãi cỏ. Hầu như không nhà nào không có người chết. Cả Thành Nội đúng là một chiến địa…Qua ngày sau, vài xác chết vẫn nằm rải rác khắp các ngả đường. Giặc Pháp cho những người sống sót đi nhận xác người thân. Xác không người nhận – có khi bị giết cả gia đình – giặc cho kéo chất đống để đốt…(Sđd, tr 328 & 335)”. Quả là một nỗi đau thương thống thiết cho bao người con dân Việt yêu nước. Cụ Phan Bội Châu có viết một bài “Văn tế cô hồn ngày 23.5” với những câu bi thiết như sau:
“Lô nhô trẻ dìu già, ông nách cháu, chân còn đi, đầu chốc lìa vai!
Lao nhao con khóc mẹ, vợ kêu chồng, tiếng chưa ngớt, xương đà chất đống!
Oan uổng quá mấy ông trên võng, thình lình sét đánh, sống chẳng trọn đời.
Tội tình thay lũ bé trong nôi, cắc cớ sao sa, chết đà trắng bụng.”
Một tư liệu văn học nữa ghi chép biến cố này là bài Vè thất thủ Kinh đô (Còn gọi là Vè cụ Mới hay mụ Mì vì hai người nầy thường đi khắp nơi đọc Vè thất thủ Kinh đô để kiếm sống), bài vè này gồm 1850 câu, kể lại toàn bộ biến cố Thất thủ Kinh đô năm Ất dậu:
…Canh hai cơm nước soạn sình
Hai bên phường phố lạnh tanh như tờ
Canh ba dàn trận binh cơ
Canh tư lấy giờ phát lệnh giao phong
Súng Tây nó nổ đì đùng
Hai bên phường điếm hãi hùng kêu la
Người chui bụi, kẻ vọt ao
Người lòn xuống cống, lao xao canh chầy
Tránh thân cho khỏi súng Tây
Mẹ con chạy vạy trời rày còn khuya
Lao xao như cá trong đìa
Tránh sao cho khỏi súng lia vào mình…
…Người sáng còn cực tấm thân
Thương ông thầy bói chân lần tay quơ…
… Từ ngày Thất thủ Kinh đô,
Bốn phương xiêu vẹo Hán Hồ khổ thay……
Từ ngày Thất thủ Kinh đô
Tây qua giăng dây thép, họa địa đồ nước Nam
Lên dinh tớ ở Tòa Khâm
Chén cơm âm phủ, áo dầm mồ hôi…
Số người chết là vô kể, nằm rải rác khắp nơi, dọc đường phố, trong các mương thoát nước, các hào hói và ao hồ. Bọn Tây dồn đống và đốt như Prudhomme nói ở trên rồi cho chôn ở Cồn mồ Ba Đồn. Một số xác khác vô thừa nhận thì bị chôn lấp cẩu thả trong các mương thoát nước dọc theo các đường trong Thành Nội. Loạt chôn ngay sau biến cố Ất dậu là tại cồn mồ số 4, 5 và 6 tại Ba Đồn. Theo Sogny, Thanh tra khố xanh Pháp trong bài “Cồn mồ vùng lân cận Nam Giao” (đăng trong Tập san “Những người bạn cố đô, Tập II, năm 1915”, NXB Thuận Hoá, tr.174) thì: “Cồn mồ thứ tư, nơi an nghỉ của quân lính hy sinh trong Kinh thành Huế ngày 23.5 Ất dậu (5.7.1885), số lượng không rõ; Cồn mồ thứ năm, nơi an nghỉ của sĩ quan hy sinh trong Kinh thành Huế ngày 23.5 Ất dậu (5.7.1885), số lượng không rõ; Cồn mồ thứ sáu, nơi an nghỉ của thường dân chết trong Kinh thành Huế ngày 23.5 Ất dậu (5.7.1885), số lượng không rõ…” Còn số được chôn lấp trong mương thoát nước tại Huế thì sau này do mở đường mà được cải táng tại cồn thứ 8 chùa Ba Đồn. Cũng Sogny cho biết “Cồn thứ 8 là (nơi qui tập) các mồ chôn dọc hai bên đường từ Kinh Thành đến chợ Đông Ba lên Kim Long và đưa dời khi mở rộng con đường, kinh phí giao cho khu phố I để di chuyển mồ mã” (Bđd, tr.175). Theo con cháu của các Phổ trưởng các phổ trong Thành Nội thì các xác trong Thành Nội cũng đưa lên Ba Đồn cải táng như Sogny kể. Vậy rõ ràng Cồn mồ Ba Đồn chính là nơi chôn những nắm xương tàn của Chiến sĩ trận vong và đồng bào nạn vong trong biến cố Ất dậu. Điều đặc biệt là chính Sogny lại cho biết trong bia đá dựng tại miếu thờ ở đây có ghi “Ở Cồn mồ Ba Đồn có nhiều nghĩa địa, có nhiều mộ không biết nguồn gốc. Trong số người quá cố có những người hi sinh cho danh dự, có người chết vì trung nghĩa…” Quả là một lời công nhận kín đáo lòng yêu nước và khí tiết của người dân Việt ta mà lại được một quan thực dân Pháp ghi chép.
Cuộc sống của dân chúng trong Kinh Thành từ sau biến cố cứ gặp phải nhiều tai hoạ, bệnh dịch, hoả hoạn…. Người ta tin rằng đấy là do quá nhiều các oan hồn của các tử sĩ và nạn dân quấy nhiễu vì không được ai thờ cúng. Dân chúng hằng năm đều tổ chức cúng tế tại tư gia.(Ảnh 2). Thế nhưng gần 10 năm sau, vào năm 1894 đời vua Thành Thái, một vị vua có tinh thần yêu nước và kháng Pháp, triều đình Huế mới chính thức lập Đàn Âm Hồn lộ thiên trên một diện tích gần 1500 m2 ở phường Huệ An gần cửa Nhà Đồ (cửa Chính Nam) để tế lễ hằng năm do Ty Lý Thiện phụ trách và quan Đề đốc Hộ thành đứng chủ lễ. Đàn nay chỉ là phế tích tại 24 Ông Ích Khiêm, phường Thuận Hoà Huế. Lúc đầu Đàn được đắp bằng đất, sau được xây cất thành một ngôi miếu uy nghi với một căn nhà ba gian một bên để cất giữ đồ cúng tế. Đây nguyên là trại lính Thần cơ (pháo binh) đã bị triệt giải nên lập miếu thờ cho các chiến sĩ trận vong là một điều dễ hiểu. Ngoài Đàn Âm Hồn trên còn có 5 miếu nhỏ ở các phường Phú Nhơn (Ảnh 1), Vĩnh An, Tri Vụ, Thuận Cát và làng Phú Xuân. Đàn Âm Hồn này tiếc thay dù đã hư nát nhưng vẫn còn ngôi miếu cho đến năm 1987 mới bị triệt giải. Rõ ràng Đàn Âm hồn này trên danh nghĩa là để thờ cúng các âm hồn phiêu bạt đây đó nhưng chính thực lại là sự ngấm ngầm tôn vinh các Chiến sĩ trận vong và cổ vũ cuộc chiến đánh đuổi thực dân Pháp.
Lễ tế Âm hồn 23.5 biểu hiện tấm lòng kính trọng của toàn nhân dân Thừa Thiên Huế đối với các chiến sĩ bỏ mình vì Tổ quốc cùng lòng xót thương đến đồng bào không may phải nạn vong. Nó còn nói lên tình nghĩa sâu xa đậm đà của bà con láng giềng hôm sớm có nhau và lòng biết ơn của các thế hệ đi sau đối với tiền nhân vị quốc vong thân. Đặc biệt, hằng năm lễ tế Âm hồn được tổ chức một cách tự phát, khởi xướng từ các kỳ lão khắp nơi trong tỉnh Thừa Thiên Huế (Ảnh 2). Một tục lệ tốt đẹp như thế đã sống trong lòng người dân xứ Huế hơn cả một thế kỷ. Nhà nào cũng cúng lễ 23. 5 cả, không chung thì riêng. Điều kì lạ là lễ đã đạt được tính cộng đồng đến độ cả các làng xa Kinh Thành như Nong, Truồi, An Lỗ, Sịa… đều tổ chức cúng bái và dù không ai khuyên lơn thúc giục gì cả mà họ vẫn tự ý làm như một bổn phận đối với người đã bỏ mình vì nước. Có lẽ đây là một lễ tế có tính nhân văn sâu sắc và đáng tự hào nhất của người Huế.
Ngày chính thức cử hành lễ tế là 23.05 A.L. nhưng dân chúng có thể theo hoàn cảnh từng gia đình mà tổ chức từ ngày ấy cho đến ngày 30.5. Lễ tế chung thì dân chúng dựng rạp ở một ngả ba đường nơi âm hồn qua lại, lễ riêng thì bàn lễ bày sát đường trước mặt nhà. Phẩm vật gồm hương, chuối, hột nổ, giấy tiền, giấy vàng, giấy bạc, khoai, đậu, sắn, mít, nhiều thứ nhưng phải có cháo thánh, (cháo loãng), cơm vắt gạo, muối (dành cho cô hồn bị chết đói) một ghè nước chè lớn (dành cho cô hồn chết khát), áo binh và một đống lửa (dành cho cô hồn bị chết lạnh dưới ao hói sông hồ). Bài văn tế của cụ Phan thường được đọc lại ở dịp lễ tế Âm hồn này.
Thiết nghĩ như một số nhà nghiên cứu khác, lễ tế Âm hồn này là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân Huế: Nó cổ vũ lòng yêu nước, lòng hi sinh vì nghĩa cả, tinh thần chống ngoại xâm của người dân và bày tỏ một đạo lí tri ân tiền nhân hay uống nước nhớ nguồn.
Chính biến Ất dậu với hịch Cần Vương là một bước ngoặt có ý nghĩa trong công cuộc kháng Pháp của toàn dân ta thời đó: Một thời kỳ chống ngoại xâm của toàn dân do nhà vua lãnh đạo hay như dân gian nói “Ở giữa Đồng Khánh hai đầu Hàm Nghi”. Nó dù thất bại một cách bi tráng đã mở ra một thời kỳ bùng nổ đánh Pháp với nhiều nhà yêu nước sáng giá như Phan Đình Phùng, Lê Trung Định, Đinh Công Tráng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám… mà giặc Pháp phải cuống cuồng điên đầu trong công cuộc gọi là “bảo hộ Nam triều”. Nó tác động sâu xa đến lòng yêu nước của dân ta về sau từ nhà vua như Thành Thái, Duy Tân đến sĩ phu như Thái Phiên, Trần Cao Vân, Nguyễn Quang Diêu, Phan Bội Châu…. Họ là lớp những nhà nho đã lớn lên trong thời có biến cố Ất dậu đầy bi tráng. Thi tù tùng thoại của cụ Huỳnh Thúc Kháng, Hợp tuyển thơ văn yêu nước của NXB Văn học, hay ký sự Nhà tù An Nam ở Guyane trên báo Tuổi trẻ hiện nay đã cho ta hiểu thêm rất rõ về lòng ái quốc vô bờ và những khổ cực cùng cực trong lao tù của họ chỉ vì đã dám yêu nước mà chiến đấu chống Pháp. Phải chăng đó là những tấm gương yêu nước bất khuất và trung kiên được khơi dậy từ tấm gương Ất dậu? Tinh thần đó còn hun đúc và nêu gương cho nhiều thế hệ yêu nước sau này nữa như Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh,… và bao chiến sĩ cách mạng khác mà lí tưởng của họ đã thăng hoa từ vì vua sang vì đất nước đồng bào. Hẳn vì những ý nghĩa sâu sắc đó, chúng ta cần tổ chức một cách chính thức và trọng thể lễ Tế Âm hồn này để phát huy tác dụng tích cực của lễ. Nhà nước ta đang chuẩn bị đưa hài cốt của vua Hàm Nghi về an táng tại Huế thì việc tôn vinh tinh thần Ất dậu cũng rất thiết thực. Sau phục hồi Đàn Xã tắc, có nên phục hồi Đàn Âm Hồn Huế, xem như là một đài Liệt Sĩ thời kháng Pháp chăng? Nhiều miễu Âm hồn khác do các phường xã lập nên như ngôi miếu khá to ở cửa Chánh tây đều đã bị triệt giải vào năm 1985 rồi. Những miếu nhỏ còn lại phần lớn bị lấn chiếm gần như mất cả cảnh quan thiêng liêng của nơi thờ tự.
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
Văn tế Âm hồn Thất thủ kinh đô (23.5. Ất dậu)
Than ôi!
Tim óc bùi ngùi,
Ruột gan tê tái.
Hơn thế kỷ trôi qua trước mắt, anh linh thiên cổ còn đây,
Mấy bi thương chất kín trong lòng, hương hoả tứ thời ngát mãi.
Nhớ Ất Dậu Kinh thành thất thủ, đám sanh linh phải bao nỗi thương vong,
Nay Mậu Tý Thuận Hoá thanh bình, phường tử đệ vẫn một niềm ái ngại.
Dẫu biết lẽ tử qui sinh ký, đời ngắn tấc gang,
Nhưng xét hồi quốc phá thân vong, nghĩa dài sông núi.
Phận cháu chắt tháng ngày nhớ tưởng, lòng kính yêu dễ mấy nguôi khuây,
Tình bà con hôm sớm quẩn quanh, bụng nuối tiếc khó mà bỏ trái.
Trước thưa sau gởi, đỉnh kỳ trầm hương khói vọng tiền nhân,
Xưa bày nay làm, lễ truy điệu cỗ bàn hầu trưởng bối.
Nhớ linh xưa:
Năng nỗ tháng ngày; Dịu dàng sớm tối
Ham việc ham công, ham đồng ham ruộng, trai cuốc cày gắng sức chăm lo,
Vui vườn vui tược, vui cửa vui nhà, gái bếp núc hết lòng vun xới.
Có đâu biết nước nhà cơn hoạn nạn, lũ Tây dương qua lấn chiếm giang sơn,
Không may thay làng xóm trận can qua, đất Nam quốc hẹp thu dần biên giới
Ách thực dân đè cổ, ngẩng cổ lên nào thấy trời mây,
Xiềng đô hộ tróng đầu, cúi đầu xuống chỉ là đá sỏi.
Thân mấy mà cam,
Lòng đâu chịu nỗi.
Từ nam chí bắc, mấy lớp nghĩa binh thua trận, quân Văn thân vẫn quyết chí chẳng lùi,
Trong phủ ngoài triều, bao viên mãnh tướng bỏ mình, lính Phấn nghĩa chẳng nề tâm xông tới.
Rựa sắt kiếm cùn, hoả mai con cúi, giết được thù cho thoả dạ hiếu trung,
Dao tu mã tấu, gậy gỗ tầm vông, phá tan giặc là mát lòng địch khái.
Vua nước mất phẫn uất đời nô lệ, họp mưu thần lập kế phản công,
Dân nhà tan thù hận kiếp tôi đòi, kết nghịch đảng hợp đoàn quật khởi.
Đêm Hăm hai súng thần công nã Chánh toà Khâm sứ, bẽ bàng thay thuốc yếu rơi ngang,
Rạng Hai ba quân hoả dược đốt Tiểu trấn Bình Đài1, oái ăm thật lửa tàn tắt vội.
Lang sa lê dương2 tiên phong vô Thượng Tứ3, săng-đá giày4 dẫm nát mù u,
Mã tà ma ní5 hậu tập vượt Lương Y6, bụp-xoà súng7 bắn tiêu cai đội.
Hoảng hốt quá, vua xuất cung tị loạn, đa đoan thê tử quân thần,
Bàng hoàng thay, dân tẩu lộ cầu sinh, lộn xộn lão nhi phường hội.
Thảm ơi hỡi thảm!
Thành cửa nhỏ đâu dễ lòn,
Hào đáy sâu sao khó lội.
Dân tan tác như ong vỡ tổ, đạp lên nhau già trẻ chết chùm,
Binh tán loạn tựa rắn mất đầu, dìu với chắc thấp cao bước mỏi.
Ơi ới, mẹ hú con chồng kêu vợ, thảm thiết sao tiếng khóc bi ai,
Hù hu, em dắt chị cháu níu ông, bi thương thật lời than khắc khoải.
Sáng đã chết, mù8 càng mau chết, đâm bổ xuống ao,
Nghèo thiệt thân, giàu cũng thiệt thân, té nhào mép hói.
Tên bay đạn lạc, súng thằng Tây tìm kẻ ngây thơ,
Lê thọc kiếm đâm, thịt dân Việt làm mồi lang sói.
Thây nghĩa sĩ ngổn ngang đường Thành Nội, dồn đống xóm Âm hồn,
Máu lương dân vung vải cửa Đông Ba, xông tanh cầu Gia Hội.
Ngao ngán thay!
Tay cung kiếm mà đền nợ nước, đành ngàn sau công trạng lừng vang,
Phận rác rơm lại bỏ thân tàn, khổ một kiếp tử thi rửa thối.
Nào gái nào trai, nào già nào trẻ, xác chất chồng xóm vắng làng thưa,
Ấy non ấy khoẻ, ấy mẻ ấy lành, xương vất vưởng nắng phơi mưa gội.
Thôi thôi chi nhiều kể lể, chốn tuyền đài linh hãy đến mau mau,
Thảm thảm ôi mấy oán than, cuộc siêu thoát hồn trông sao hối hối.
Man mác đám mây chiều phiêu dạt, người dương gian thêm chạnh nỗi hàn ôn,
Lạnh lành cơn gió chướng hắt hiu, khách âm cảnh còn vương tình trần giới.
Nay kính dâng,
Bát cháo thánh hầu ấm thân cô độc, trên đường xa mù mịt bốn phương,
Tấm áo binh đỡ lạnh gót lạc loài, giữa lối thẳm âm u chín suối.
Nước chè nhạt cũng tình quyến luyến, khát vơi dần miệng kẻ thác oan,
Củ khoai cằn ấy nghĩa thân quen, no đôi chút bụng người chết mới.
Bông chuối cau trầu đủ thứ, lỡ khi cùng không thiếu vật tuỳ thân,
Giấy tiền vàng bạc sót chi, gặp lúc ngặt có thừa đồ trao đổi.
Tội sớm tha, công thưởng lớn, nguyện cầu vía yên hàn vượt thoát, đêm âm ty ám ám lưới sương giăng,
Oan thì giải, nghiệp trả dần, cầu khấn hồn thanh thản ra đi, chiều dương thế mù mù luồng khói nổi.
Đốt nén nhang ngan ngát, mặc ngậm ngùi xin chớ ngó lui,
Vẫy chén rượu thơm tho, dù ấm ức hãy mau bước tới.
Tâm thành lễ bạc, bàn phẩm vật trên dưới sơ sài,
Ngôn thiểu ý đa, câu ai điếu ngắn dài vụng dại.
Ai tai!
Hồn hãy hiển linh;
Niệm tình thụ bái.