TOÁT YẾU
Từ xa xưa đã có hiện tượng cư sĩ tham gia tu tập Thiền, Tịnh Độ và học tập nghiên cứu Phật Học; nhưng thời cổ đại, việc cư sĩ tại gia học Phật là hành vi tự phát riêng lẻ, không có tổ chức đoàn thể đại chúng cùng tu tập. Trong quá trình lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc, các cư sĩ có vai trò rất tích cực trong việc học và hoằng dương đạo Phật, trải qua nhiều thời đại đã xuất hiện không ít những vị cư sĩ có cống hiến lớn lao với đạo. Đến thời nhà Thanh, do mạng mạch truyền thừa bị gián đoạn do đó khiến Phật Giáo suy yếu. Sau đó có cư sĩ Dương Nhân San phát tâm gánh vác, vận động lập ra hình thức đoàn thể cư sĩ để phục hưng Phật giáo. Tiến hành các hoạt động kết tập, in ấn, phát hành kinh điển, mở trường lớp, nghiên cứu Phật giáo, bồi dưỡng nhân tài, cải cách hưng long Phật giáo, đó chính là thời kỳ đầu phát triển của Cư sĩ Phật giáo.
LỜI MỞ ĐẦU
Thời cổ đại, Nho gia và Đạo gia Trung Quốc dùng từ “cư sĩ” như một cách tôn xưng những người thoái ẩn, cũng là để khẳng định nhân cách đối với những nhân sĩ ở ẩn, vì thế gọi cư sĩ là một hình thức tán dương những người đáng được tôn kính. Khi phiên dịch các kinh Phật từ tiếng Phạn ra tiếng Hán, các vị cổ đức mượn cách gọi “cư sĩ” vốn quen thuộc của dân gian Trung Quốc để biểu thị “người học Phật tại gia” thay cho “Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di” cũng là điều hợp lí. Ấn Độ cổ đại cũng gọi người học Phật tại gia là hàng đệ tử “bạch y”, bởi đệ tử tục gia tại Ấn Độ cổ xưa có tập quán mặc y phục màu trắng.
Sau khi Trung Quốc hóa Phật giáo Ấn Độ, người Trung Quốc dựa vào thói quen của mình gọi người học Phật tại gia là cư sĩ, dù có đôi chút khiên cưỡng, tự đề cao bản thân tuy nhiên cũng chỉ có cách đó mới có thể biểu đạt một cách lí tưởng nhất, nếu không sẽ khiến người ngoài khó mà chấp nhận vì thân phận của người học Phật tại gia vô tình bị hạ thấp. Ngày nay chúng ta dùng cách biểu đạt tự xưng cư sĩ thể hiện được sự trang nghiêm và có phong vị văn hóa gần gũi hơn so với danh xưng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di; cũng cảm thấy cách gọi đó là khá nghiêm túc và tự tôn.
Đệ tử của đức Phật gồm có hai chúng là “xuất gia” và “tại gia”. Người xuất gia là các vị Tỳ Kheo hoặc Tỳ Kheo ni. Những người xuất gia học Phật, cũng gọi là Tăng nhân, vị Tăng nhân thuyết pháp thì gọi là Pháp Sư. Thực ra cách gọi đầy đủ là “Tăng Già”, dịch âm của chữ Shangha, có nghĩa là tăng đoàn. Người Trung Quốc quen gọi người xuất gia là “Hòa Thượng”, cách dùng Hòa Thượng bắt nguồn từ cách gọi tăng nhân là “thượng hòa” thường thấy trong cổ thư, theo căn cứ khảo cứu thì cũng là dịch âm của chữ Shangha. Giới Phật giáo Trung Quốc cận đại gọi người xuất gia là Sư phụ, đó cũng là minh chứng cho thấy sự nhập gia tùy tục; bởi giới võ thuật Trung Quốc gọi người thầy dạy võ là Sư phụ, nên Phật giáo cũng dùng từ này để chỉ người thầy thu nhận đệ tử quy y.
Nhìn từ góc độ lịch sử, Phật giáo sau khi truyền vào Trung Quốc, trải qua các thời kỳ Lưỡng Hán, Tam Quốc, Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều, Tùy, Đường, ban đầu là tin ngưỡng và kế thừa theo Phật giáo Ấn Độ; sau đó mới du nhập kinh Phật tiếng Phạn, thông qua giao lưu văn hóa Phạn – Hán mới phiên dịch ra kinh Phật Hán tạng; lại nhờ có sự ủng hộ của triều đình phong kiến các thời khiến Phật giáo hoằng dương rộng khắp dân gian, thịnh truyền ở Trung Quốc. Quá trình dịch thuật kinh điển Phật giáo không chỉ làm phong phú văn hóa Trung Hoa mà còn thúc đẩy sự hình thành Phật giáo Trung Quốc. Tuy vậy, Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Quốc cũng là cùng chung một nguồn mạch, đều là vì để tiếp diễn lời dạy của Phật Thích Ca; vì thế nói Phật giáo chính là Phật giáo, không phân biệt Phật giáo Ấn Độ hay Phật giáo Trung Quốc.
CƯ SĨ PHẬT GIÁO
Sự đề xướng tổ chức Cư sĩ Phật giáo nhận được nhiều sự quan tâm, vì đó không chỉ là một loại khái niệm tư tưởng học Phật mà còn là điểm dựa tinh thần của người học Phật tại gia. Cư sĩ Phật giáo cũng y vào nền tảng Phật pháp, giống như người xuất gia tu tập dựa vào Giới – Định – Tuệ; ngoài trì giới, định tâm rồi dùng trí tuệ mà góp sức hoằng hiển đạo pháp còn thêm hành hạnh bố thí và cúng dường; là pháp môn tu hành viên mãn gọi chung là phước tuệ song tu. Kinh Kim Cang có nói: “Phật Pháp bình đẳng không có cao thấp”, vì thế bất luận xuất gia hay tại gia đều buộc phải y theo giáo lý Phật Giáo, tu theo Phật Pháp, tôn kính Phật Đà, học Phật như vậy mới là như pháp, mới là cứu cánh, và chân thật tu hành.
Mục đích cuối cùng của Cư sĩ Phật Giáo cũng là phải giải trừ phiền não, giải thoát và thành tựu Bồ Đề. Xuất gia học Phật đương nhiên rất tốt, song tại gia học Phật cũng tốt như vậy. Do mỗi dạng có nhân duyên khác nhau nhưng đều có điểm chung là giải thoát luân hồi, hiểu rõ nhân quả báo ứng và thông đạt quả báo nghiệp lực. Vì vậy nói người học Phật tại gia ngoài việc phụng hành bố thí và cúng dường thì tự mình phải nỗ lực tu hành để thanh tịnh thân tâm là điều quan trọng nhất; bởi không tu hành thì không có công đức, không có tri thức Phật Pháp, dẫn đến hiểu biết thiếu sót về Giới – Định – Tuệ, xa rời pháp môn giải thoát thì khó mà liễu ngộ được ý nghĩa thù thắng thâm sâu của Phật Pháp như Tánh Không, Vô Thường, Vô Ngã cho đến Tứ Thánh Đế (khổ – tập – diệt – đạo).
Phật Pháp nói, Khổ là bản chất của nhân sinh, cũng là một hiện tượng Vô Thường. Vô Thường là quy luật của vũ trụ. Vô Ngã là bản tính của Không, cũng là nguồn gốc của chư pháp và là bản thể của vũ trụ vạn vật. Thông qua tu hành mới có thể lí ngộ rồi thể nghiệm thực tiễn ý nghĩa vi diệu của Vô Thường, Vô Ngã. Nhờ tu Thiền hoặc niệm Phật mới đắc “định cảnh” mà thể hội được nội hàm của Giới – Định – Tuệ và Tứ Thánh Đế, rồi hướng đến pháp môn giải thoát rốt ráo sau cùng, pháp xuất thế gian là mục đích xác thực nhất mà người xuất gia và tại gia học Phật đều phải hướng đến và nỗ lực tu chứng.
Sau khi đức Phật thành đạo liền nhập thế hoằng pháp chỉ đường cho chúng sinh suốt 49 năm, dùng phương thức giáo dục để truyền dạy văn hóa Phật giáo cho tín chúng, sau đó lại do các vị đệ tử truyền miệng từ người này sang người khác phổ biến khắp thế gian, cuối cùng thông qua kết tập ghi chép thành văn tự lưu truyền cho hậu thế, làm rạng rỡ lịch sử văn hóa nhân loại, lợi ích chúng sinh trên đời. Tư tưởng của Phật Pháp lợi lạc nhân thiên lưu truyền từ xưa đến nay, trải qua thời gian hai nghìn sáu trăm năm đã làm rạng rỡ lịch sử văn hóa nhân lọai, trở thành một di sản văn hóa vĩ đại của thế giới.
Di sản văn hóa Phật Giáo vô cùng đồ sộ, kho tàng Kinh – Luật – Luận của Phật Pháp phong phú và có giá trị lớn trong nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng lâu dài của tư tưởng xã hội gia tộc (tông pháp), nội bộ Phật giáo phân liệt khiến giáo pháp dần đi vào mê tín, bảo thủ, dẫn đến tư tưởng bi quan nghiêng nặng việc tu để hướng vào kiếp sau. Giáo pháp nhân bản bị lạc hậu so với thời đại, lợi ích chủ đạo của Phật pháp bị che lấp, khiến cho Phật Giáo có xu hướng thoát ly xã hội, xa rời quần chúng, đi ngược lại tinh thần nhập thế và nguyện vọng phổ độ chúng sinh thoát khổ của Phật Thích Ca. Phật giáo vốn trí tín và lí tín đã biến thành tín ngưỡng tôn giáo với hình thức mê tín, cuồng tín; tư duy tôn giáo lấy con người làm gốc biến thành lấy thần thánh làm chủ. Đó chính là cách nhìn và giải thích của nhiều người bình thường đối với Phật giáo hiện nay.
Thay đổi chính mình, cải biến ý thức và cách nhìn của xã hội đối với Phật Giáo là nhiệm vụ thiêng liêng của Phật giáo đồ hiện nay, đẩy mạnh giáo dục văn hóa Phật Giáo là trách nhiệm chung của người học Phật, bởi vì đó là động lực để hưng thịnh Phật Pháp. Nếu còn tiếp tục giấu giếm đi khuyết điểm, câu nệ vào tri kiến tông phái như: Thiền tông câu nệ không lập văn tự, Tịnh Độ tông thì thiên về lí tưởng thế giới tha phương, Mật tông lại quá nghiêng về lễ nghi thần tướng hóa, Phật giáo Nam truyền lại bảo thủ và hành trì phương thức tu hành, lễ nghi của Ấn Độ cổ xưa hoặc coi tăng nhân là cao quý, người phàm là hèn kém. Nếu cứ tiếp tục như vậy sẽ làm tổn hại đến Phật Giáo, khiến Phật Giáo xa rời xã hội, Phật Pháp không thể phát dương. Hậu quả bi ai cho Phật Giáo chính là không thể tri thức hóa, trẻ hóa, nhân gian hóa, nên chúng ta cần phải biết nhìn lại lịch sử vết xe đổ trong quá khứ suy vi của Phật giáo để làm gương. Trong thế kỉ văn minh cao, khoa học phát triển, tin tức nhanh nhạy của thời đại thông tin như ngày nay, người cư sĩ Phật Giáo phải biết đưa Phật Giáo ra quốc tế, hướng đến lĩnh vực văn hóa, giáo dục.
Từ thế kỉ 19 đến nay, Phật Giáo đã trải qua quá trình nỗ lực thay đổi lâu dài và gian khổ để trở về với Phật Pháp chân thực, khôi phục diện mạo ban đầu của Phật Giáo, khiến lời dạy của Phật Thích Ca được thị hiện. Phật Giáo thế kỉ 20 có bước phát triển mới, đến nay đã khôi phục được như thời hưng thịnh với sự tham gia của thanh niên trí thức, sự nghiên cứu và hiểu biết của giới giáo dục văn hóa và giới chính trị đối với Phật Pháp; sự nâng cao về trình độ tri thức của Phật Giáo đồ, nhờ đó đã tri thức hóa tín ngưỡng Phật giáo. Trong quá trình bài trừ những yếu tố phi Phật Giáo cũng đã đẩy mạnh giáo dục văn hóa Phật Giáo, làm sống dậy những tư tưởng Phật Pháp chân chính, hướng thượng và đầy tính nhân văn cống hiến. Giá trị chân thực của Phật Pháp là lợi ích chúng sinh, hành động thực tiễn của Phật Pháp là để lợi lạc hữu tình, trên phương diện này người cư sĩ đóng một vai trò tích cực. Cư sĩ Phật giáo phát huy tác dụng bên ngoài chùa viện để đem Phật pháp đến với mọi tầng lớp xã hội, phổ biến đến mọi vùng miền trên thế giới, đây cũng là sự phát huy vai trò của Cư sĩ Phật Giáo đối với sự thịnh vượng của Phật Giáo hiện đại.
Đẩy mạnh Cư sĩ Phật Giáo là thúc đẩy cư sĩ tu hành Phật Pháp, nghiên cứu Phật học, phát biểu bằng tác phẩm nghiên cứu, đóng góp ý kiến quý báu cho cư sĩ học Phật, dùng lý luận Phật Học để dẫn dắt cư sĩ học Phật, tinh tấn tu hành để bước lên đại đạo Bồ Đề, tránh được hình thức hóa và sùng bái cá nhân. Cư sĩ học Phật thường bị hiểu lầm cho rằng chỉ cần bố thí cúng dường chính là học Phật, cũng chính là bổn phận của cư sĩ học Phật, cách nói như vậy không phải hoàn toàn sai; nhưng Phật Pháp đã có nói, bố thí cúng dường là tu nhân thiên phước báo, không phải cứu cánh của tu hành; chỉ có phước tuệ song tu, kết hợp tu tập Phật Học, tu trì Phật pháp với bố thí cúng dường mới là nền tảng đúng đắn trong học Phật. Tổ sư Đạt Ma nói với vua Lương Võ Đế rằng: “bố thí và cúng dường thì không có công đức”, Tổ Đạt Ma cho rằng giữa công đức và phước đức có sự phân biệt, công đức là nội tu, còn phước đức lại là ngoại cầu.
Phật Học vô cùng, đường tu xa vời vợi, nhưng với tám vạn bốn nghìn pháp môn phương tiện thì mọi đường đều có thể thông, chỉ có điều chúng sinh đều có cơ duyên và pháp duyên riêng biệt nên chỉ có thể dựa vào truy cầu Phật Pháp để tự mình tu hành thanh tịnh bản tánh mà không thể nhờ cậy vào sự tu hành của người khác, như Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn có nói: “phúc bất đường quyên” – tức có nỗ lực tu hành nhất định có sở đắc. Tóm lại, học Phật nên dựa vào sức mình nương theo Phật Pháp mà tu, cầu xin tha lực hoặc thần lực chỉ đem lại lợi ích cho đời này, khó mà giải thoát, càng khó lên được bờ giải thoát Niết Bàn. Vì thế học Phật mà không nghiên cứu Phật Học, không nương vào Phật pháp tu hành thì khó đạt được thành tựu, bởi vì không tu trì Phật Pháp thì không hiểu được chân lý, tu hành trong mê vọng mà không có sự dẫn dắt của Phật Pháp thì rất dễ lạc vào tà đạo, dẫn đến tẩu hỏa nhập ma. Quá trình học Phật buộc phải tuân theo ba pháp ấn là: chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, Niết Bàn tịch tĩnh làm gương chiếu rọi. Lấy trì giới làm nền tảng của tu tập, tiến tu Thiền định để đạt đến trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật mới thực là con đường học Phật.
HỌC PHẬT TẠI GIA NHƯ THẾ NÀO?
Phật Giáo đồ học Phật chia làm hai dạng là tại gia và xuất gia, tuy nhiên bất luận tại gia hay xuất gia đều nên y theo Phật pháp, lấy việc tu hành làm trọng. Bố thí và cúng dường là đạo đức tốt đẹp của cư sĩ tu phước, là căn bản của phước đức, chứ không phải công đức cứu cánh. Công đức do tự mình đạt được là kết quả do tu hành Phật pháp đem lại. Vì thế nói người học Phật tại gia ngoài việc tu phước thì nên lấy công đức để viên mãn bản thân. Tu hành là điều kiện quan trọng để thanh tịnh bản tánh, minh tâm kiến tánh, là giải thoát luân hồi, cứu cánh Niết Bàn, thành tựu Bồ Đề.
Phật pháp nói, Giới – Định – Tuệ là những điều kiện quan trọng của việc tu hành thành đạo, người tu tại gia cũng nên lấy đó làm gương chiếu. Bố thí cúng dường là điều Phật Thích Ca căn dặn đệ tử tại gia để duy trì việc tu hành bình thường của tăng đoàn, còn hành trì cúng dường là bổ trợ để tu phước báo và tu hành công đức. Vì thế nói Cư sĩ Phật giáo ngoài bố thí ra còn phải tu hành Phật pháp mới bước vào được con đường học Phật chân chính. Người học Phật tại gia không nên dừng ở chỗ lễ bái cầu phước, cầu nhân thiên phước báo mà nên học tập Phật học, tu hành Phật pháp, Giới – Định – Tuệ làm cứu cánh, mới đúng là trình tự phương pháp tu hành khổ – tập – diệt – đạo. Kinh Kim Cang nói “nếu như người cầu hình tướng để thấy, cầu âm thanh để nghe, tức người đó đang hành tà đạo, không thể thấy được Như Lai.”
Ý NGHĨA CỦA VIỆC XUẤT GIA HỌC PHẬT
“Tăng già Phật Giáo” là tư tưởng chính thống của Phật giáo Ấn Độ cổ đại, chế độ tùng lâm ở Trung Quốc cũng là trung tâm của Phật giáo tăng già, là điểm tựa cho tu hành của người xuất gia học Phật. Tăng già là cách gọi tổ chức hòa hợp tăng đoàn cùng tu hành học Phật, đương nhiên xu hướng học Phật cũng là chỉ y theo Phật pháp, lấy giới làm trọng, lấy thiền làm định, lấy tuệ làm tu, tấn thủ Phật đạo. Nói chung, tăng nhân tiếp nhận cúng dường buộc phải dùng công đức Phật pháp hồi hướng, đó là một phần trong công khóa tu hành thường ngày của người xuất gia. Phật Giáo hết sức tán thán người xuất gia học Phật, Ưu Bà Tắc Giới Kinh có nói: “Bồ Tát có phân làm hai là xuất gia và tại gia. Hàng xuất gia tu thanh tịnh sáu Ba La Mật không khó, hàng tại gia thì bị đa ác nhân duyên đeo bám”. Vì thế nói Cư sĩ Phật giáo mới thực sự là đáng quý. Đối với Phật giáo mà nói, xuất gia ý là thoát ly nhà thế tục, thường trú nhà Như Lai, lấy tu hành làm gia nghiệp, tiếp thọ nhân thiên cúng dường, dùng công đức tu hành trí tuệ Phật Pháp để hồi hướng cho người thí. Lấy công đức mình học được, tu được, chứng được để hồi hướng chúng sinh, hướng dẫn chúng sinh thâm nhập Kinh Tạng hiểu rõ Phật Pháp, ly khổ đắc lạc, thoát khỏi sinh tử luân hồi, hoàn thành đại sự cuối cùng của nhân sinh. Lợi người ích mình là cốt lõi của tinh thần Phật Giáo Đại Thừa, lợi ích chúng sinh hướng theo đại đạo Bồ Đề với tinh thần đại vô úy là mục đích tu hành cứu cánh của người học Phật.
Sự nghiệp xuất gia là con đường cứu cánh của học Phật, dụng ý của xuất gia học Phật chính là thanh tịnh tâm tính, mục đích dập tắt phiền não, bởi vì không còn phiền não chính là hoan hỉ an lạc, cũng chính là bước lên đại đạo Bồ Đề. Thanh trừ phiền não phải dựa vào chuyên tu Tứ Thánh Đế, Bát Chính Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên, tu Giới – Định – Tuệ để chế phục Tham – Sân – Si, tịnh hóa nhân tính, đó chính là trọng tâm tu chứng của Phật pháp. Xét bản thân “pháp” thì “tâm” vốn không có Tam độc, nhưng do tâm người tham lam sinh ra sân si mà tạo nghiệp, khởi vô minh mà phiền não, luân hồi nhân gian. Con người chính là do nhân duyên phiền não kết tụ mà thành, do tham sân si mà khởi phiền não, hình thành nghiệp lực, trầm luân trong sáu đường, vì thế nên nói nhân sinh không viên mãn, toàn thiện. Xét trên góc độ Phật Pháp, định nghĩa về “Phật” chính là nhân sinh viên mãn, bởi đạo nghiệp nếu thanh tịnh, nghiệp lực sẽ tiêu trừ, có thể buông bỏ thì sẽ được tự tại, ý thức thanh tịnh, không còn phiền não, cứu cánh giải thoát, Niết Bàn tịch tĩnh, đó chính là mục đích cuối cùng của xuất gia học Phật.
Ý NGHĨA CỦA HỌC PHẬT TẠI GIA
Người học Phật tại gia cũng giống như người xuất gia, truy cầu Phật đạo, xuất gia học Phật đương nhiên là tốt, tại gia học Phật cũng không phải là không đáng quý, mỗi dạng đều có nhân duyên khác nhau, nhưng kết quả thì giống nhau. Vì vậy nói người học Phật tại gia không chỉ hành trì bố thí và cúng dường, quan trọng hơn cả vẫn là tự mình tu hành thanh tịnh tâm tánh. Người xuất gia cũng vậy, xuất gia mà thiếu tu hành thì mất đi ý nghĩa, bởi vì không tu hành thì không thể thấu hiểu Phật pháp, khó mà liễu ngộ nội hàm giải thoát của Giới – Định – Tuệ, không thể nghiệm được ý nghĩa thù thắng và chỗ thâm sâu huyền bí của tu hành Phật Pháp; do đó không thể tịnh hóa tâm tính, mãi bị buộc trong hồng trần, luân hồi lục đạo không có ngày kết, đó chính là chướng ngại lớn nhất trong học Phật, vậy người học Phật nên lấy đó làm gương chiếu lại chính mình.
Phật pháp nói, Khổ là hiện tượng của nhân sinh Vô Thường, Vô Thường là quy luật hiện tượng của vũ trụ; sự tiêu trừ Khổ và Vô Thường chính là giải thoát. Nguyên tắc của giải thoát là Tánh Không, mục đích của giải thoát là Vô Ngã. Để thấu hiểu Vô Thường, Tánh Không, và Vô Ngã chỉ có thể thông qua tu hành Phật Pháp mới có thể thực sự thể nghiệm sự vi diệu đó. Do đó cần chú trọng tu hành như pháp, lấy tu Thiền hoặc niệm Phật và nghiên đọc kinh điển để được công đức, dùng trí tuệ đó tiến tới tu tập pháp môn giải thoát cứu cánh sau cùng. Đó chính là pháp môn tu chứng cuối cùng mà người học Phật xuất gia hay tại gia đều cần hướng đến.
THIỀN ĐỊNH VÀ GIẢI THOÁT
Duyên khởi và duyên diệt là hiện tượng tự nhiên, cơ sở để sinh thành vạn vật trong vũ trụ, nhờ vạn pháp bổ trợ lẫn nhau mà vạn vật đổi mới không ngừng. Nhưng bản chất là do nhân duyên hòa hợp để tạm biểu hiện ra ngoài mà nội hàm của hết thảy pháp tướng vẫn là Tánh Không, đó chính là đạo lý “duyên khởi tánh không”, “nhân duyên sinh diệt, tự tánh bản không” vẫn tồn tại bình thường hàng ngày.
Kinh Kim Cang nói: “Như Lai từng nói, tam thiên đại thiên Thế giới, tức phi thế giới, chỉ danh là thế giới, nếu thế giới thực hữu, tức là nói hợp nhất hết thảy tướng (nhất hợp tướng); hợp nhất hết thảy tướng tức bất khả thuyết, nhưng kẻ phàm phu thì tham chấp chuyện đó”. Vì thế xuất phát từ nhận thức Phật pháp thì bản thể của thế giới cho đến vũ trụ vạn vật vốn là Không tính, không có thực tướng, chỉ tồn tại một thể nhất hợp tướng. Nhận thức được lý luận Tánh Không của Phật pháp chính là giúp đỡ chúng ta tu hành đạt đến mấu chốt của giải thoát.
Học Phật là để thành Phật, học Phật tất phải có chính tri chính kiến để tu hành, phương pháp tu hành có rất nhiều như thâm nhập Tam tạng Kinh – Luật – Luận, tu Thiền, niệm Phật, trì chú, trì giới cho đến trì tụng kinh văn, nghiên cứu Phật pháp… đều là để tâm thức tĩnh lặng đến khi trở về bản tính thanh tịnh; tức khi đạt đến “tĩnh” và “định” thì trí tuệ được tăng trưởng, liễu ngộ sâu Phật pháp để tiến tu công đức viên mãn. Nhưng nếu rời bỏ tu hành Giới – Định – Tuệ, không quán tu Tứ Niệm Xứ thì khó mà thành tựu.
Phật Giáo không coi thiền định là mục đích cuối cùng của tu hành. Thiền định chỉ là một trong các phương pháp tu hành. Bất cứ ai cũng có thể thông qua học Thiền để trải nghiệm công dụng của định tĩnh. Tuy rằng tu Thiền có thể đạt được công phu Thiền định, nhưng buộc phải dùng Định để sinh Tuệ, nếu Định chỉ để đạt được niềm vui của Định thì tu hành cũng thành uổng phí. Trên góc độ Phật pháp, Thiền định thế gian không thể giải thoát luân hồi; muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi thì buộc phải dựa vào Giới – Định – Tuệ, đặc biệt là tu hành trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật, đó chính là dùng giới tịnh ý, dùng định chỉ quán mà sinh trí tuệ Bát Nhã. Tu Tuệ có thể bắt đầu từ “Tứ niệm xứ”, lấy chỉ quán đạt, tính tịnh ý, trừ vô minh, hiện Niết Bàn, đó chính là điểm khác biệt của Phật Pháp so với thế gian pháp.
Tu trì Tứ niệm xứ tức là quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, chư pháp vô ngã. Thông qua bốn tư duy này để tiêu trừ dục cầu và chấp trước trong tâm, từ trì Giới mà sinh Định, khởi phát Trí Bát Nhã hướng thành Phật đạo, tu Giới – Định – Tuệ mới là pháp môn cầu giải thoát.
Thiền Phật giáo là do tĩnh mà sinh định, mục đích chứng đắc Bát Nhã Ba La Mật, vì thế đối với Thiền định của trí Bát Nhã thì Tuệ tu là quan trọng nhất. Nếu không có Thiền định trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật thì sẽ gây trở ngại cho việc chứng đắc “vô lậu trí”, trở thành “định chướng”. Vì thế nên nói tu Định mà không có trí tuệ Bát Nhã thì chỉ là tu nhân thiên phước báo, không thể độ người giải thoát tam giới, xa rời biển khổ sinh tử.
Xuất phát điểm của loài người là từ “vô minh”. Vô minh là kết quả của nhân, hình thành vũ trụ vạn vật, loài người cũng tồn tại giống như vậy. Vì có “nhân” vô minh sai lầm, nên “quả” tự nhiên cũng là sai. Do nhân quả đều sai mà nhân sinh có phiền não và đau khổ. Mục đích của Phật Pháp là đưa con người thoát khỏi vòng nhân quả sai lầm này, bằng phương pháp tu hành đạt giải thoát trở về bản lai không tánh của cảnh giới Niết Bàn tịch diệt. Phật pháp dùng Giới – Định – Tuệ để thể hiện Bát Nhã Ba La Mật, làm sáng tỏ hiện tượng pháp tắc vô thường, vô ngã của Tứ niệm xứ, đó mới là pháp môn tu hành giải thoát chân chính.
DUYÊN KHỞI LUẬN CỦA PHẬT GIÁO
“Nhân tính bình đẳng” cho đến “chúng sinh bình đẳng” là tư tưởng cốt lõi của giáo dục Phật Đà, giá trị của Phật Pháp chính là để hết thảy chúng sinh được ly khổ đắc lạc, đạt cứu cánh Niết Bàn tịch tĩnh. Do đó Phật Thích Ca dùng phương pháp giáo dục chỉ dạy chúng sinh liễu tri Phật pháp, rồi dùng Phật Pháp giác ngộ tha nhân; vì thế mà đề xướng chúng sinh bình đẳng “mọi chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật”, đó là chân lí thiên cổ không bao giờ mất đi giá trị. Phật Giáo cho rằng vũ trụ vạn vật cho đến hết thảy hiện tượng trên thế gian đều do “duyên khởi tính không, nhân duyên hòa hợp” mà tồn tại. Kinh Kim Cang nói: “nếu thế giới thực có, tức là nói nhất hợp tướng, nhất hợp tướng tức là bất khả thuyết” chỉ do kẻ phàm phu còn lòng tham chấp. Lý luận này cũng là điểm khác biệt của Phật Giáo so với các tôn giáo khác, ở chỗ phủ định Thần Tạo Luận (do thần thánh tạo ra thế giới) mà công nhận chân lý “duyên khởi thuyết” và “hòa hợp luận”, đó là những quan điểm cho thấy sự khác biệt của Phật giáo. Phật pháp cho rằng vạn vật đều nương tựa bổ trợ lẫn nhau, tác động lẫn nhau mà hình thành và tồn tại, nhân quả luận cái này sinh dẫn đến cái khác sinh, chủ trương vạn vật duyên sinh tương hỗ mà thành, không phải là do thần tạo.
Bà La Môn giáo cho rằng vũ trụ vạn vật đều do đấng Phạm Thiên (Brahma) tạo ra, là chuyển hóa của “thần ngã”, từ một loại nhân chung gốc chuyển biến thành vạn tượng sự vật, gọi là “chuyển biến thuyết”. Luận thuyết “thần tạo luận” này cũng là bản ý đầu tiên hình thành nhiều tôn giáo khác trên thế giới. Phật Thích Ca cũng phủ định “lục sư” ngoại đạo thời bấy giờ nhấn mạnh rằng vạn vật vũ trụ là do nhiều loại nguyên tố tập hợp mà thành, cũng tức nói nhiều loại phần tử bằng những hình thức khác nhau cấu thành vạn tượng phức tạp, cũng tức là nói thuyết tích tụ “nhất nhân” chỉ có nhân quả một chiều.
Phật Thích Ca Mâu Ni đề xuất thuyết “duyên khởi”, cho rằng mọi sự vật đều dựa vào nhau mà tồn tại, tác động lẫn nhau, sự tồn tại của tất cả mọi thứ đều lấy sự tồn tại của những thứ khác làm điều kiện chung, vì thế nói “cái này có làm cho cái khác có, cái này sinh làm cho cái khác sinh”. Quan điểm vạn vật dựa vào nhau tồn tại, làm điều kiện cho nhau tồn tại mà Thuyết Duyên Khởi thể hiện đã phủ định “chuyển biến thuyết” của Bà La Môn và thuyết “nhất nhân” một chiều của Lục sư ngoại đạo; cũng tức là phủ định thần tạo luận, mà chủ trương vạn vật duyên sinh phi thần luận.
Phật Giáo giảng “duyên khởi”, do đó có nhiều nhân duyên sinh ra pháp, từ đó sinh ra nhiều vấn đề kéo theo, vì thế chú trọng hiện tượng nghiệp lực sinh ra trong quá trình sinh sống của con người, hiện tượng này không phải điều diễn biến bên ngoài sự vật mà ngay trong quá trình sinh tồn. Sự kiến lập của lý luận này bắt nguồn từ sự quán chiếu toàn bộ quá trình nhân sinh, chứ không chỉ riêng là quan sát hiện tượng vũ trụ; vì thế Phật Thích Ca chia đời người ra làm năm phần, chín phần, mười phần, mười hai phần. Về sau thuyết 12 phần của Phật giáo Đại Thừa trở thành cách nói thống nhất, tức thuyết thập nhị nhân duyên. Duyên khởi mà Phật Học giảng giải chính là bắt nguồn từ thuyết thập nhị nhân duyên. Như “Lữ Trừng Cư sĩ” trong “Duyên khởi và thực tướng” làm rõ ba loại duyên khởi, càng làm cho học thuyết duyên khởi thêm hệ thống và sâu sắc.
Loại thứ nhất “nghiệp hoặc duyên khởi” là thuyết Duyên khởi căn bản và nguyên sơ nhất, còn gọi là “phân biệt ái phi ái duyên khởi”, hay “thập nhị nhân duyên còn gọi là thập nhị hữu chi”. Thập nhị chi gồm có: Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão Tử. Thập nhị hữu chi lấy Vô Minh làm đầu, lấy Lão Tử làm điểm cuối để miêu tả quá trình hiện tượng nhân sinh; bởi vì có sinh nên có già chết, đó chính là gốc nguồn đau khổ của cuộc đời; vì vậy Phật giáo chủ trương nếu không có chết thì chỉ có một con đường đó là không sinh ra.
Loại thứ hai là “thọ dụng duyên khởi”, được tạo ra trên cơ sở của “nghiệp hoặc duyên khởi”. Thọ dụng duyên khởi chủ yếu làm rõ sự đan xen lẫn nhau của hai phương diện hiện tượng chủ quan và khách quan, từ đó hình thành các hiện tượng nhân sinh với những quan hệ nhân quả nội tại. Nội dung của thọ dụng duyên khởi là ba loại pháp môn gồm uẩn, giới, xứ; trong đó “Ngũ uẩn” có thể cho thấy rõ đặc trưng của duyên khởi này hơn cả. Uẩn “Sắc” trong ngũ uẩn thuộc về hiện tượng khách quan, uẩn “Thức” thuộc về hiện tượng chủ quan; thọ, tưởng, hành nằm giữa hai loại này nhưng thiên về hiện tượng chủ quan nhiều hơn. Sự tiếp xúc giữa Thức và Sắc buộc phải bắt đầu từ cảm thọ, sau đó từ Thọ tới Tưởng, từ Tưởng tới Hành, từ Hành tới Thức; do khác biệt trong cảm thọ khổ lạc mà sinh tâm tư yêu ghét, dẫn đến khác biệt trong hành động. Do đó Thọ có vai trò quyết định, nên gọi là “thọ dụng duyên khởi”. Duyên khởi quán của “Không Tông” chính là y theo ba loại hòa hợp giả Uẩn – Xứ – Giới của hữu tình tương tục nương nhau giả để hình thành nghiệp cảm duyên khởi, chứ thực chất không có một thực thể thật sự để thọ sinh cảm quả.
Loại thứ ba là “phân biệt tự tính duyên khởi”, tức là thuyết duyên khởi sinh ra sau cùng thời hậu kỳ Phật giáo Ấn Độ; bởi Phật Giáo tiếp nhận tư tưởng thần mật của ngoại đạo Bà La Môn dần dần xuống dốc hình thành hệ thống Mật tông thần mật của Phật giáo Ấn Độ hậu kỳ; do đó mất đi tư tưởng thuần túy và giải phóng truyền thống vốn có của Phật Giáo nguyên thủy. Phân biệt tự tính duyên khởi có thể xem như sự mở rộng một bước của Thọ dụng duyên khởi, đề cập đến cả vũ trụ nhân sinh, từ đó đắc được nhận thức về thực tướng. Phật Giáo Đại Thừa cũng nhấn mạnh vai trò của “cộng nghiệp”, để tiêu trừ ảnh hưởng của cộng nghiệp, sự giải thoát của con người chỉ có thể do cả nhân loại chứ không có cá nhân giải thoát hoàn toàn, như vậy có thể khiến cho phạm vi của duyên khởi mở rộng đến cả vũ trụ nhân sinh.
Các tính của chư pháp bất đồng, thể hiện qua sự lí giải khái niệm “danh tưởng”. Danh tưởng không chỉ hạn chế ở ngôn thuyết, nó còn bao quát cả quan niệm biểu tượng trong tâm lí. Nhận thức về danh tưởng sau khi phát sinh và hoàn thành thì không hoàn toàn mất đi mà vẫn còn dư âm lưu lại làm căn cứ nhận thức lần sau, gọi là “tập khí” hay “huân tập”. Từ đó có thể phát sinh ý nghĩa nhận thức lần sau gọi là “công năng” hoặc “chủng tử”. Tập khí này khi lưu lại trong tâm lí sẽ còn bị ảnh hưởng từ các danh tưởng khác; từ đó phát sinh chuyển biến một cách không tự hay biết, tăng gia thế dụng, sức mạnh, đến khi phát triển tới một mức độ nhất định sẽ bộc phát thành một lần nhận thức nữa; quá trình diễn biến như vậy gọi là “chuyển biến sai biệt”. Tác dụng nhận thức biểu tượng cũng là sự tự chiếu của bản thân ý thức mà không có thực tại khách quan; thuộc về phạm trù trên mặt hiện tượng thể nhận thực tướng của Duy Thức phân biệt tự tính duyên khởi; muốn xem biểu tượng và bản chất có phù hợp hay không thì dùng Tam tính để biểu thị.
“Tam tính” tức: biến kế sở chấp tính, y tha khởi tính, viên thành thực tính. Khi nhận thức chưa hoàn mãn, sẽ bị ảnh hưởng bởi nhân ngã chấp và sẽ bị can nhiễu bởi ngã chấp; nên đối với sự vật chỉ có thể miễn cưỡng nhận thức bằng tưởng tượng, cho nên cái chúng ta nhận thức được chỉ là tự tướng được hình thành bởi sự phác họa của danh và tưởng chứ không phải bản chất của sự vật hiện tượng; thậm chí còn phủ lên nó một lớp mờ che đậy khác nữa, cho nên gọi đó là “biến kế tính” (biến: tức khắp thảy; kế: tức cộng dồn). Y cứ trên nó mà tiến hành những hành vi trong thực tiễn thì sẽ càng gia tăng đau khổ, biết rõ biến kế hư vọng nên cần phải gia tăng sự uốn nắn, giảm trừ chấp trước nhân pháp nhị ngã thì sẽ không bị sự chi phối của danh và tưởng, nhờ đó có thể hiểu rõ được bản chất của sự vật. Trước biết rõ sự nương dựa hỗ tương của hiện tượng duyên khởi, biết rõ biểu hiện cố định nhưng không phải là một tự thể độc lập nên càng nhận thức rõ hơn được y tha tính của sự vật hiện tượng, hiểu rõ được không có mối liên hệ giữa y tha tính và danh tưởng thì sẽ rời bỏ được sự buộc ràng của danh tưởng mà nhận thức rõ tính thực tại của nó, còn gọi là “ly ngôn tự tánh”.
Bản chất của sự vật là không có nhận thức tự tính nên có thể tiêu trừ được sự chấp trước của nhân pháp nhị ngã, xa rời được năng sở nhị thủ, như vậy có thể từ tạp nhiễm chuyển hướng đến thanh tịnh, từ hữu lậu chuyển hướng đến viên mãn, thông qua thực tiễn để cuối cùng đạt đến thực tướng cứu cánh chính là “viên thành tính”. Thực tướng của tam tính lấy viên thành làm y chỉ; biến kế và y tha có thể đầy đủ ý nghĩa tương đối của thực tướng, thảy đều do trình tự của viên thành. Vũ trụ quan của Phật Giáo lấy duyên khởi làm căn bản, y nơi duyên mà nói thực tướng, hiểu biết nhận thức về thực tướng tức là nhận thức về bản chất của duyên khởi, cũng là không thể tách rời khỏi sự tu tập trong thực tiễn, thông qua sự tu tập trong thực tiễn để tịnh hóa tự ngã, thay đổi xã hội, cải thiện môi trường đều là căn bản của tự giác trong mỗi con người. Tự giác của mỗi người không ngừng hướng thượng, lấy việc thực hiện tự lợi lợi tha đạt đến điểm cuối cùng chính là giải thoát. Thực tiễn của việc tu tập là lấy việc tu hành giải thoát làm mục tiêu tối thượng.
“Trung Quán” nhấn mạnh, bất luận là nghị luận hay thực hành thì điều quan trọng là thể hiện được việc tu tập trong thực tiễn. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đầu tiên cũng lấy việc tu tập khổ hạnh rồi sau đó thể nhập chân lý tu hành trung đạo quán phi khổ phi lạc. Y cứ vào trung quán để thể nghiệm và quán sát thực tướng của chư pháp cần phải xa rời hết thảy sự phân biệt của danh và tưởng, biên kiến thiên kiến, không thể biểu rõ được thực tướng của sự vật, chỉ có tiêu trừ sự thiên chấp cực đoan, xa rời biên kiến thì mới có thể nghiệm và quán sát được bản chất của sự vật, vì thế sự tương ứng của trung và chân chính là trung đạo, cũng là sự thể hiện của tư tưởng Trung quán.
Tư tưởng Trung quán Đại Thừa của Bồ Tát Long Thọ xuất pháp từ lập trường của pháp môn bất nhị, nhấn mạnh bất sinh bất diệt, bất thường bất đoạn, bất nhất bất dị, bất lai bất khứ; “bát bất” này phá trừ phân biệt hư vọng, hiện thực ly rời hết thảy tri kiến, cũng gọi là “không quán”. Trung Luận chỉ rõ, “chúng nhân duyên sinh pháp, ngã thuyết tức thị không, diệc vi thị giả danh, diệc thị trung đạo nghĩa”. Duyên khởi pháp đầy đủ, không – giả – trung còn gọi là Tam đế. Duyên khởi vô tự tính cho nên gọi là không, không tức là tự tính không, cũng tức là vô ngã, cho nên nói do duyên khởi pháp sinh diệt vô thường, không phải thực hữu, không chấp không cũng không chấp có tức là thực tướng. Nhận thức của thực tướng đối với sự buông bỏ chấp ngã chính là thật nghĩa của vô ngã, càng chính là tính không của duyên khởi, chân thực tính của nhân duyên hòa hợp.
THỰC TIỄN QUAN CỦA PHẬT GIÁO
Phật giáo lấy giải thoát làm mục đích cuối cùng của học Phật, lấy tu hành làm thực tiễn giải thoát, đó là trọng tâm của tu hành học Phật. Nhân sinh quan Phật giáo nhấn mạnh “ly khổ”, thế giới quan Phật giáo nhấn mạnh “tập đang trừ diệt”, “đạo” phải tu hành mới thực tiễn được. Thực tiễn cần có nhận thức chính xác và trí tuệ tương ứng; vì vậy nói, quá trình tu hành thực tiễn là không thể tách rời trí tuệ. Kết hợp sự soi chiếu của trí tuệ vào thực tiễn tu hành thì mới có thể đạt đến mục đích giải thoát, tức là tác dụng của khổ – tập – diệt – đạo. Tu hành là con đường bắt buộc của quá trình học Phật, giữ vững hằng tâm nhất định có thể đến được bến bờ Bát Nhã Ba La Mật, đó chính là biểu hiện của thực tiễn quan.
LỜI KẾT
Cư sĩ Phật Giáo hiện đại ngoài tín – nguyện – hạnh ra còn cần phải có văn – tư – tu, thâm nhập kinh tạng, lí ngộ Phật Pháp, tu hành đạt đến minh tâm kiến tánh để khai mở Phật đạo hướng đến giác ngộ giải thoát. Lợi ích chúng sinh, viên mãn chính mình đó là tinh thần Phật Giáo Đại Thừa, cũng là nền tảng để người cư sĩ học Phật và là điểm chính yếu để phát huy chức năng của Cư sĩ Phật Giáo hiện đại.
Để hướng dẫn người cư sĩ có thái độ học Phật đúng đắn, khích lệ việc học tập nghiên cứu Phật học, tu tập Phật Pháp nên dựa trên nền tảng chánh tri, chánh kiến, giữ vững tâm nguyện, hành và tín niệm đúng đắn. Thông qua các công trình học tập và nghiên cứu về Phật pháp của các học giả tổ chức hội thảo, tọa đàm phát biểu luận văn, luận bàn về kinh nghiệm học Phật dựa trên nhận thức đúng đắn và thấu suốt, hướng cho người cư sĩ có phương hướng và mục tiêu học Phật đúng đắn.
Hòa thượng Ấn Thuận từng nói “Tin sâu Tam Bảo, nên bắt đầu từ chánh kiến, nương chánh kiến khởi chánh tín, có thể dẫn đến chánh hành, hướng theo Phật đạo, tự lợi lợi nhân hộ trì chánh pháp”. Người Cư sĩ nên lấy lời dạy đó của hòa thượng để làm phương hướng cho việc học Phật của mình.
Phát triển tổ chức Cư sĩ Phật Giáo quốc tế, tham dự các diễn đàn cư sĩ Phật Giáo thế giới, trên cơ sở tư tưởng giáo dục của ba tôn giáo lớn trên thế giới, lý niệm tín ngưỡng và tiến trình xã hội hài hòa để đóng góp ý kiến cho giới tôn giáo. Phát huy ảnh hưởng của Cư sĩ Phật Giáo trên phạm vi quốc tế, nỗ lực và dụng tâm đẩy mạnh Phật Pháp cho Phật Giáo ngày nay.
Xây dựng và kiến lập các đạo tràng cư sĩ tu tập và học Phật để thúc đẩy chánh tín đối với Phật Pháp, phát triển đạo tràng cùng tu tập của hàng xuất gia tu hành và hàng cư sĩ học Phật, tạo những điều kiện thuận lợi cho người học Phật và những người muốn học Phật có cống hiến tích cực trên lĩnh vực tinh thần, tâm linh, phát triển văn hóa giáo dục và cung cấp phương diện kinh tế.
Phật Pháp có vai trò tích cực đối với an ninh xã hội, an định nhân tâm, ngoài nhiệm vụ hướng dẫn tu tập Phật Pháp, phục vụ cho sự nghiệp giáo dục văn hóa và từ thiện phúc lợi xã hội, thay đổi phong tục lạc hậu cải tạo xã hội, phát dương tinh thần Phật Giáo nhập thế. Quảng tu hết thảy thiện hạnh, lợi ích tất cả chúng sinh là mục tiêu phục vụ xã hội của những người học Phật, đảm nhận trách nhiệm của chúng ta đối với đất nước trên tinh thần quan điểm tôn giáo tiến tới cùng hòa hợp, cùng lợi ích xã hội, cộng đồng.
Thích Giải Hiền: nguồn: daophatngaynay.com