Sau ba hồi chuông trống Bát nhã đón giao thừa, xông lên một lò trầm, chế một bình trà thật thơm, dâng một đĩa mứt gừng ngọt ngọt cay cay, vị đệ tử đầu cùng pháp đệ của mình y áo chỉnh tề quỳ lạy chúc thọ sư phụ và các vị cao niên trong chùa, vừa để chúc thọ vừa để xin lời giáo huấn đầu năm. Mùi trầm hương thơm ngát, lời giáo huấn đầu năm ân cần của sư phụ từ từ thấm sâu vào tâm khảm các chú các tiểu.
Ngày mùng một Tết là ngày nhộn nhịp nhất của nhà chùa. Bổn đạo Phật tử gần xa và người dân xứ Huế có tập tục lên chùa lễ Phật sớm. Không hẹn trước mà ai nấy đều trang nghiêm, liên nghĩ đến quá khứ, hiện tại và tương lai, để mong cầu cho tâm hồn được sáng trong, không còn vương vấn với bụi trần. Tâm tư đi chùa của người Huế thật dung dị, nhẹ nhàng, sâu lắng và kín đáo, không khoe khoang mốt này mốt nọ, tinh tế chung thủy với nếp xưa, thiết tha gìn giữ hương vị mùa Xuân truyền thống. Lên chùa lễ Phật là để dâng nén hương lòng đầu năm, cầu cho năm mới an bình, quanh năm suốt tháng có thiện duyên thấm nhập hương thiền.
Từ bao giờ cho đến bây giờ, nhà chùa là nơi che chở ôm ấp cho tâm hồn con người chuộng đức tin mà không sa vào hình thức phô trương phù phiếm. Đến chùa là để thắp nén hương lòng, dâng lên thành hương đạo, tuyệt nhiên không có cảnh ai ai cũng dâng hương một cách ngút ngàn. Khách đến chùa, trước lễ Phật, sau thăm hỏi chuyện trò vui vẻ được quý Hoà thượng cầu chúc tốt lành đầu năm thì không gì bằng.
Ảnh hưởng của đạo vào đời thật là sâu lắng. Mọi người hiểu và thấm nhuần được tinh thần Phật giáo “Tâm bình thế giới bình” cho nên họ hiểu Xuân lòng mới là Xuân miên viễn, mà phấn chấn tinh thần gạn đục khơi trong. Đẹp gì bằng lánh xa những tác hại đua đòi, sa ngã vào chốn bùn nhơ, để hướng đến xây dựng một xã hội phú xuân phú cường. Vì thế mà cảnh sắc xuân trong chùa Huế rất thanh bình bởi tình Xuân, tình đạo, tình người hòa quyện làm một.
Ngày xưa, mỗi khi Tết đến Xuân về, quý Hoà thượng thường đi thăm và tặng quà cho bà con làng xóm mà bất luận là bổn đạo hay quần chúng chưa là Phật tử, quà thì chẳng có là bao, lạng trà, gói bánh hay một nhành mai… nhưng dường như đã gợi lên một tình cảm ưu ái và cảm hóa khó tả nên lời.
Tình Xuân ấy đã truyền thừa từ ngàn xưa, vì thế mà rất nhiều ngôi chùa ở Huế mang tên Xuân, tên An, tên Lạc. Phải chăng người dân Thuận Hóa ngày xưa đã nhìn thấu được sự sinh động đầy sắc Xuân trong chùa mà đặt tên?! Như đến chùa Trường Xuân thì “bốn mùa trông có vẻ Xuân”, chùa Diên Xuân quanh năm cỏ đồng đưa thoảng mùi hương, chùa Phú Xuân, chùa Xuân Phú trong chùa dồi dào sắc Xuân, chùa Dương Xuân, chùa Xuân Dương lung linh giọng đồng ngân xa, tràn ngập ánh Xuân. Mỗi ngôi chùa là một nét đặc trưng của nàng Xuân kiều diễm ở chốn đế kinh. Đến chùa tức gặp được Xuân, cầu mong người người luôn sống như Xuân vui tươi hướng thiện. Nào là chùa Xuân An, chùa Kim An, chùa Hòa An… đến chùa ắc gặp bình an, an bình, cầu mong quanh năm sống khỏe dài lâu. An là an tâm, có an tâm mới lạc nghiệp.
Như vậy Xuân trong chùa Huế là Xuân an lạc. Phật tử Huế đi chùa là để cầu được thường lạc. Cho nên bất kể ở đâu có chùa có Phật là mọi người đều đến chiêm bái, nương náu…Sắc Xuân chùa Huế là sự hòa quyện hương lam từ chốn thiền môn lan tỏa khắp núi rừng của miền sông Hương núi Ngự, cùng với tiếng chuông chùa vang vọng đến tận hư không…
T.N