Trang chủ Văn hóa - Lịch sử Hương cau

Hương cau

135
0

Mỗi tàu cau mang trong mình một buồng hoa, giống như người đang thành kính chắp tay. Buồng hoa có nhiều tua hoa vươn dài, trên mỗi tua những nụ trắng như ngọc điểm xuyết tinh khôi. 

Cau có hoa cái và hoa đực, hoa cái từ khi sinh ra đã có hình dạng quả, thụ phấn xong quả sẽ lớn nhanh cho đến khi chín vàng; hoa đực trông như những hạt gạo, nhiều hương thơm, khi nhỏ có màu trắng ngà, lúc chín rụng xuống như vãi gạo. 

Người ta thường quét lấy phơi khô, dành để sắc uống dần trong những ngày nóng bức. 

Hoa cau nở vào ban đêm, càng về sáng mùi hương càng ngào ngạt, lan tỏa. Dưới ánh trăng huyền ảo, luồng hương cau như ru say. 

Buổi sáng những giọt sương mai trong vắt vương đầy trên buồng hoa. Khi nắng mới vừa lên, hoa trắng ngà óng ả. Từng cơn gió nhẹ như ướp hương đầy trên mái tóc đen dài của các cô gái. 

Các cụ thường kể cho con cháu nghe về mùi hương cau bí ẩn lúc canh khuya và dáng điệu thướt tha của hai bà chúa xứ. Như từ trong huyền tích bước ra, hai bà chúa xứ đầu đội nón quai thao thoắt ẩn thoắt hiện quanh đường làng ngõ xóm để bảo vệ cho phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ. 

Tín ngưỡng thờ nữ thần gắn liền với cuộc sống của những người phụ nữ hay lam hay làm. Trong chiếc áo nâu sờn, họ tất tả cắp cái thúng, nghiêng vành nón vào ra mỗi ngày dưới những hàng cau, đẹp như bức tranh thêu. Còn đám trẻ trong nhà cứ có dịp là thoả thích nô đùa. Thằng anh để thằng em ngồi lên chiếc tàu cau mới rụng và kéo đi quanh vườn với mô hôi nhễ nhại. 

Những bé gái, đứa nào đứa nấy, bốc bỏ hoa cau vào vạt áo rồi đến ngồi bên hiên nhà, vừa trò chuyện vừa lấy chỉ xâu những bông hoa thành chuỗi ngọc, đội lên đầu, quấn vào cổ vào tay để đóng vai công chúa. 

Đám trẻ trai, đứa thì quần ống cao ống thấp, đứa thì cài cúc áo lệch hở cả rốn, giành nhau những tàu cau già để giả làm trâu kéo. Khi ấy, hình ảnh thằng Bờm trong ca dao và đám trẻ trai kia có khác gì nhau.

Khi cau đến mùa thu hái, thịt quả mềm, hạt trắng, hương vị ngọt tự nhiên, là các bà lại rủ nhau cắt vài buồng bỏ vào thúng đem ra chợ phiên bày bán. Thú vui đó cũng là hình ảnh đẹp một thời của làng quê đất Việt. Thích ăn cau là thế, nhưng cứ hễ được mùa cau thì các bà lại thở dài, “mưa nắng thất thường thế này, chả trách được mùa cau, đau mùa lúa”. 

Thời ấy, cau nào có giá trị kinh tế gì, chẳng qua tại các đám cưới hỏi, cúng giỗ, thiếu nó thì coi như không thành lễ. Đã thế, cau còn hợp với sở thích (nghiện) của đa số các bà các cô, nên cũng được xem là một thứ quả quý, và càng quý hơn mỗi khi mất mùa. Cứ như các ông, lúc vui lên, muốn vào đầu câu chuyện, cũng tập tành nhai trầu bỏm bẻm để làm duyên. Chính vì thế, từ hoa đến quả lại có những ứng xử khác biệt. Hương cau thì chung ngõ, mà quả cau thì khác nhà, xem như đặt cái tình ra trước thì rộng, để cái lợi ở lòng thì hẹp. Ở đâu mà từ hương cau đến quả cau cùng được những người hàng xóm í ới chia sớt cho nhau, thì ở đó cháu con sẽ thêm phần tốt phúc. 

Thử như mỗi khi có chuyện, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong nhà lại vừa giã trầu vừa nghiêm nét mặt: “Thương nhau cau sáu bổ ba/ Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”. Chỉ nhờ vào câu nói có ý gần ý xa ấy mà cháu con tự biết hổ thẹn dằn lòng mình lại. Nếu chẳng biết rộng lòng với nhau, một khi người cũ đi rồi, vườn cau còn đó nhưng trái cứ già đi, vàng khô rồi để rụng. Lúc đó, cái cơi, cái ống nhổ và chiếc cối giã trầu cũng theo nhau trở vào quá khứ. 

Miếng trầu cay thơm nồng, bao đời luôn thắm đỏ. Nhớ dáng ngoại còm cõi cả một đời thương cháu, thương con mà lòng nghẹn lại. Trong đêm chợt thức giấc nhìn ánh trăng soi qua khung cửa nhỏ, lại nao lòng nhớ đến một miền hương cau…

T.T.T

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here