Đề-bà-đạt-đa là em con chú con bác với Đức Phật, cũng xuất gia chân chánh, tu hành đâu đó đàng hoàng; nhưng chỉ vì tu lâu… chưa đạt thánh quả, tâm chưa thuần tịnh nên… bị quyền thế và danh lợi chi phối khiến lòng tham được trưởng dưỡng; không chịu tu tập tâm thanh tịnh mà lại mong cầu thần thông để được lợi dưỡng và thích khoe những điều kỳ lạ để… lòe thiên hạ. Ỷ là em của Phật nhưng không được Đức Phật… chiếu cố về nhân thân mà dạy cho thần thông nên ông này… ôm lòng phản nghịch! Đề-bà-đạt-đa muốn thay Phật lãnh đạo Tăng đoàn nên đã tìm cách gây “mất đoàn kết nội bộ,” nhiều lần muốn giết Phật; nào là thuê người hành thích Đức Phật, ném đá hại Phật, thả voi trận giày Phật, xúi giục thái tử A-xà-thế là con của vua Tần-bà-sa-la hại Phật và giết vua chiếm ngôi… Tóm lại, đó là một con người “cùng hung cực ác”, xứng đáng cho vào chín tầng địa ngục dài lâu…
Vậy mà ở thời Pháp hoa, Đề-bà-đạt-đa được Phật ca ngợi hết lời, còn thọ ký cho sẽ thành Phật Thiên Vương Như Lai… không thua kém bất cứ một Đại Bồ-tát nào! Tin nổi không? Tin một kẻ xấu ác như Đề-bà-đạt-đa, một kẻ mà việc ác nào cũng dám làm để thỏa mãn tham vọng, mà cũng trở thành Bồ-tát, thành Phật?
Tin quá đi chứ! Có gì mà không tin! Trước hết, Pháp Hoa đã khẳng định ai cũng sẽ là Phật, ai cũng sẵn có tri kiến Phật, sẵn có Phật tánh cả, như viên ngọc trong chéo áo, chẳng qua vì không biết để nhận ra. Đề-bà- đạt-đa cũng là… người, dù là người ác, nên đương nhiên cũng có viên ngọc quý đó trong chéo áo. Đề- bà-đạt-đa cũng có Phật tánh của mình chứ! Phật tánh đó cũng “bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm…” chứ, một lúc nào đó nó cũng sẽ hiện ra chứ; cho nên Đề-bà-đạt-đa sẽ thành Phật như mọi người mới hợp lý!
Huống chi Đề-bà-đạt-đa lại là người có công lớn… đối với Phật và với Tăng đoàn. Kinh cho biết, trong những đời lâu xa, tiền thân của Đề-bà-đạt-đa đã từng giảng kinh Pháp Hoa cho tiền thân của… Đức Cồ-đàm! Mà không có chuyện đó thì dễ gì tiền thân của Đức Cồ-đàm… thực hành được các ba-la-mật để sau này có duyên… thành Phật! Lại nữa, có khi nhờ Đề-bà- đạt-đa gây chia rẽ cho nên Đức Phật mới lo… “củng cố nội bộ” Tăng đoàn, đào tạo lực lượng kế thừa, đề ra những giáo quy phù hợp tình thế… đồng thời, các vị Tỳ-kheo cũng thấy được cái tai hại của việc tham cầu thần thông, việc kéo bè kết cánh… từ đó mà ráng lo tu tập cho thiệt thanh tịnh… rồi cũng thành Phật, chớ không cầu… lãnh đạo Tăng đoàn!
Cho nên “phản diện”, “đối lập” quả là cần thiết, người phản diện đối lập đáng là một… Đại Bồ-tát! Chướng tai gai mắt đó mà cần biết chừng nào, quý biết chừng nào. Không có cái đối kháng đó, ta dễ trở thành một thứ “tăng thượng mạn”! Ngay trong cơ thể ta, đã có hệ giao cảm ắt phải có hệ đối giao cảm để mà điều chỉnh.
Hãy nghe Phật kể “công đức” của Đề-bà-đạt- đa: “Do nhờ ông Thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa làm cho ta đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, từ bi hỷ xả, mười trí lực, bốn món vô sở úy, bốn món nhiếp pháp, mười tám món bất cộng… và nhờ đó mà thần thông đạo lực, thành bực Đẳng Chánh Giác rộng độ chúng sanh. Đó là chưa kể có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi món đẹp, thân sắc vàng tía…”. Thấy chưa! Tất cả đều là nhờ công đức của Đề-bà-đạt-đa đó. “Tất cả công đức đó đều lànhơn thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa cả!”. Hóa ra Đề-bà-đạt- đa là một… thiện tri thức, một người tạo ra “nhơn” để từ đó mà có “quả” của Phật! Mới thấy nội dung Pháp Hoa thật là tài tình, nhân chuyện Đề-bà-đạt-đa mà đề cao đức khiêm hạ của bậc Tối Tôn. Mặc dù Ngài Cồ-đàm đã thành Phật rồi mới giáo hóa Đề-bà-đạt-đa mà Ngài vẫn công nhận chính những “nghịch hạnh” của Đề-bà-đạt-đa lại là “tăng thượng duyên”… giúp Ngài thành Phật; cứ như thể không có Đề-bà-đạt-đa thì Phật… còn lâu mới có được nhẫn nhục, tinh tấn… còn lâu mới có lục độ vạn hạnh, còn lâu mới có được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi món đẹp, thân sắc vàng tía…! Cho nên học Phật, trong đời cũng rất nên có những Bồ-tát “thuận” và những Bồ-tát “nghịch”, những Đề-bà-đạt-đa của riêng mình.
Làm như nếu Đề-bà-đạt-đa là một người… nịnh Phật, suốt ngày khen Phật có những tướng tốt, các món đẹp gì gì đó thì Phật… còn lâu mới thành Phật được! Cho nên thực tế trong đời sống, kẻ “đối lập” ta chính là người ơn của ta. Sau này ta thấy Bồ- tát Thường Bất Khinh – thực chất là một “hạnh” của Phật- đã xử sự ra sao trước mọi người bất kể người đó là ai. Dù bị chửi bới mắng nhiếc xua đuổi, Thường Bất Khinh luôn chắp tay xá xá: “Xin chào ngài. Ngài là vị Phật tương lai…”. Mới nghe tưởng chế giễu, nhạo báng mình nhưng nghe đi nghe lại thì giật mình à há, mình cũng có “hạt giống” Phật trong người đó chứ, nếu chịu khó tưới bón, hôm nào cũng dám mọc ra một cây bồ-đề lắm chứ!
Nhìn bằng con mắt “bất nhị” thì Đề-bà-đạt-đa là một vị Phật đứng bên cạnh Phật Thích Ca. Một nhân vật phản diện cần thiết! Cái ác mà không “cực ác” thì cái thiện cũng khó mà “cực thiện”! Ở các cửa chùa xưa nay luôn có ông Thiện và ông Ác! Ông Thiện cũng dễ thương mà ông Ác cũng dễ thương! Quán Tự Tại Bồ- tát thì thảnh thơi hơn, lúc Thiện lúc Ác, tùy cơ ứng biến mà cứu độ chúng sanh, với lòng đại từ đại bi của Ngài thì khi cần thiện hóa thiện, khi cần ác hóa ác.
Cho nên đọc Đề-bà-đạt-đa thấy sảng khoái! Sao lại không “kính tín chẳng nghi lầm” nhỉ? Giả sử xưa Pháp Hoa không có phẩm này, sau mới có bậc “cao nhân” đưa thêm vào thì phải cúi đầu mà “tán thán” chứ!
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 181
vanhoaphatgiaoblog.com