Trang chủ Sáng tác - Nghệ thuật Con thằn lằn chọn nghiệp

Con thằn lằn chọn nghiệp

146
0

Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa lớn, vừa cao ngất, củi xếp rất vuông vắn, thẳng thắn, dường như được săn sóc chẳng khác một vườn kiểng do một vị lão trưởng giả chăm nom.

Một hôm, trời đã tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được một chặp, thì có hai người khách đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng:

– Bạch sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới dõi bước đến đây. Mong nhờ sư cụ cho tá túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.

Nhà sư ung dung chắp tay đáp:

-Nam mô A Di Đà Phật, của thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước.

 Rồi dừng một chút, dường như để trấn tĩnh nỗi vui đang sôi nổi trong lòng, nhà sư tiếp:

– Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi này, không được một ai đến viếng. Ngày nay là ngày hoàn mãn ước nguyện của tôi, may được hai vị khách quý quá bước, ghé nghĩ chân. Âu cũng là nhân duyên định sẵn  … 

Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn khách đến câu hỏi:

– Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào trong thời khóa công phu của mình ?

Vui sướng, vì như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp:

– Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói đã viếng khắp nơi. Cách ba năm nay, trí tuệ được mở ra… Và từ ấy tôi chỉ tụng kinh Kim Cang.

 Một người khách hỏi:

– Sư cụ có thể cho biết duyên cớ vì sao chăng?

– Nam mô A Di Đà Phật, chỉ có lời nói, mà độ được người, tôi sao dám tiếc lời! Vậy tôi xin vui lòng mà nói cho hai ngài rõ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách, thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy: hai nghìn năm trăm năm về sau, Phật Pháp sẽ đến chỗ không còn những người tu học và chứng ngộ : ấy là thời mạt pháp. Đức Phật Di Lặc sẽ thị hiện xuống trần gian, mà cứu độ những kẻ thành tâm thực sự tu hành. Bởi lẽ ấy cho nên tôi có nguyện tụng đủ một nghìn lần kinh Kim Cang. Nếu lời nguyện ấy được thực hiện thì tôi sẽ đắc đạo.

Người khách thứ hai hỏi:

– Sư cụ tụng được bao nhiêu lần rồi?

– Nam mô A Di Đà Phật, đã  được chín trăm chín mươi chín lần rồi. Bây giờ chỉ còn lần thứ một nghìn, ấy là lần tụng của đêm nay. Chắc hai ngài trước có gieo sẵn duyên lành với bần tăng, cho nên được dịp đến đây để mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy.

Đến đây bữa cơm đã mãn, khách mệt mỏi, xin ngả lưng. Nhà sư dọn dẹp trong am cho thanh khiết, rồi bước lại trước bàn Phật, khêu bấc đèn dầu, mở kinh ra và bắt đầu tụng niệm. Tiếng tụng kinh chậm rãi, như nện vào không gian. Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân lên đánh dấu tiếng mõ dài đằng đẵng …

Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đổi vài câu:

– Tội nghiệp thay cho sư cụ già, quá mê tín, mất sáng suốt, mà không giác ngộ. Phật Pháp được lập ra đã hai nghìn năm trăm năm trước, tránh sao cho chẳng có chỗ lỗi thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ của đức Phật ắt phải lo tài bồi, cách tân, phát triển mối đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ; rồi sinh ra môn, ra phái, ấy là nguồn gốc của sự phân nhánh chi li. Nay rừng thiền có hơn tám mươi bốn nghìn cội khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.

– Tôi cũng đồng ý với các anh về chỗ đó, và nghĩ thêm rằng: nếu bây giờ có một đức Phật Di Lặc xuống trần, thì vị Phật ấy có trọng trách sửa đổi, cân nhắc Phật pháp cho cao kịp với sự tiến hoá của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay.

Và trách nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước cái giáo pháp mới mẻ chắc chắn sắp ra đời. Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải là phụ lòng mong mỏi của đức Phật Thích Ca chăng ?    

Lời nói của hai người khách, giữa một cái am vắng vẻ, không dè có kẻ trộm nghe. Kẻ nghe trộm này là một con thằn lằn, nó đến trú ngụ ở am này từ khi am vừa mới dựng lên, và đã từng nghe chín trăm chín mươi chín lần kinh, nên có linh giác, trí tuệ khai mở, nghe hiểu được tiếng người, biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê bình của hai người khách đã giúp cho con thằn lằn giác ngộ. Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư: là hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư lên dàn hỏa mà tự thiêu… Rồi nó nghĩ: nhà sư lòng còn mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu thân thì làm sao chứng ngộ và nhập được Niết-bàn. Hay là ta tìm phương pháp ngăn chận ông sư mê muội này, đừng để cho ngài thiêu thân, đợi chừng nào ngài giác ngộ thâm sâu hơn, rồi sẽ tìm phương kế khác.

Rồi con thằn lằn quyết định : Phải ngăn ngừa, đừng để cho nhà sư tụng xong lần thứ một nghìn, nó nghĩ được một kế: ấy là bò lên bàn Phật, đến đĩa đèn dầu, ráng sức mà uống cạn đĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn sẽ tắt, nhà sư không thấy chữ mà tụng nữa. Như vậy, buổi tụng kinh sẽ bị gián đoạn tức thời.

Một sức mầu nhiệm đã giúp con thằn lằn đạt được ý nguyện: chỉ trong một hơi mà đĩa dầu đã cạn; trong khi ấy, nhà sư vừa mới tụng bộ kinh chỉ mới quá nửa mà thôi. Đèn tắt, nhà sư ngạc nghiên nhưng nghĩ: hay là hai người khách là kẻ phàm tục, không được duyên lành chứng giám việc đắc đạo của mình?  

Thôi thì mình hãy xếp bộ kinh Kim Cang này lại, tạm nghỉ một thời gian, chờ ngày mai khách lên đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy.

Nhưng sau đó, đêm nào cũng vậy, buổi đọc kinh chưa xong mà đèn lại tắt đi. Nhà sư có lúc tính tụng kinh lần này vào khoảng ban ngày, nhưng nhớ lại rằng khi xưa đã có lời nguyện tụng kinh vào khuya, tĩnh mịch nên không dám đổi.

Và một đêm kia, nhà sư bất an vô cùng cho nên dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà tâm hồn và đôi mắt cứ đặt vào dĩa đèn dầu phụng, chốc chốc lại liếc nhìn đĩa đèn dầu để xem sự thể do đâu.

Và nhà sư không  lấy ngạc nhiên khi bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà uống dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, mà mắng rằng:

– Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo!

Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần kinh, bước lên giàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu mình.

Và cũng đêm ấy, hai cái thần thức được đưa đến trước tòa sen của đức Phật. Uy nghiêm, ngài gọi nhà sư mà dạy:
 – Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu bài học vỡ lòng của Pháp ta là thế nào ! Pháp ta đã dạy phải chuyển hóa dục vọng thì mới đắc đạo, mà ngươi dục vọng lại quá nhiều: bởi việc muốn đắc đạo, để được thành Phật kia cũng là một cái dục vọng. Có dục vọng ấy là THAM; bởi tham nên giận mắng con thằng lằn ấy là SÂN; bởi sân nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn thì tha hồ tụng kinh, rồi đắc đạo, ấy là SI. Có đủ THAM, SÂN, SI, tất phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn chay trường trọn đời cũng chưa bù được.

“Tội của người lớn lắm, phải tu luyện rất nhiều mới mong chuộc được.

Vậy ta truyền cho chư thần như Kim cang, La-hán hốt hết đống tro do xác ngươi thiêu mà hóa ra, rồi đem tro ấy tung khắp bốn phương trời. Mỗi hột tro đó sẽ hóa sanh làm một người. Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám chúng sanh ấy sẽ được giải thoát, quy nguyên bản thể thanh tịnh, trở lại hiệp thành một, thì nhà ngươi sẽ đến trước tòa sen của ta mà viên thành chánh quả”.

Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:

– Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy đáng giá là một mà thôi. Còn nhà ngươi, được nghe lời hai người khách, được giác một phần rồi, mà làm tội, tội ấy đáng kể là mười. Đây là theo lẽ công bằng mà phải phán định như vậy, !

Hồn con thằn lằn lạy mà thưa rằng:

– Bạch đức Thế Tôn, thật lòng của đệ tử vốn là muốn cứu độ nhà sư ra khỏi vực u mê, tăm tối, dầu cho đệ tử tan nát tấm thân này thì cũng không tiếc. Chẳng hay đệ tử có tội chi?   

Đức Phật phán:

– Muốn cứu độ người khác, thì chẳng thiếu chi phương pháp, sao ngươi lại cả gan dám ngăn đón việc tụng kinh của người? Đã đành rằng tụng kinh như nhà sư là chưa phải hành vi chánh kiến hoàn toàn, song vẫn là một tín ngưỡng đáng khen ngợi. Cõi Phật vốn là cảnh giới đại từ đại bi, là cõi đại trí tuệ tự tại, nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, thay vì kêu gọi lòng tự nguyện tự giác của người khác thì nhà ngươi lại sử dụng bạo lực, áp bức để dắt người vào, thì làm sao tránh khỏi sai quấy cho được? Bởi ngươi không dùng phương pháp tự nguyện, lại không tôn trọng tự do tư tưởng của người khác, vậy thì nhà ngươi là kẻ si mê, cố chấp, thiếu từ bi và trí tuệ dẫn tới việc đánh mất tự do, thì cả hai làm sao được vào cõi Cực Lạc ?

Một lần nữa, con thằn lằn được ngộ nhập tri kiến Phật, bèn quỳ lạy mà sám hối:

– Xin Đức Phật mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp nữa, để dùng phương pháp tự do mà độ vô số chúng sanh do những hột tro, mà các vị thần Kim cang, La-hán vừa tung ra đó.

Phật đáp:

– Ta cho ngươi được toại nguyện.

Hồn con thằn lằn vừa muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì sực nhớ, nên bạch rằng:

– Xin Đức Phật dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi?

Phật đáp:      

– Nhà ngươi đã khá thức tỉnh, gần kề bến giác, phải tự mình chọn hình thể mà hóa sanh. Tự do chọn lựa chỗ thọ sanh và hình thể thọ sanh, mới có thể rèn luyện bản thân để bước vào cõi giải thoát tự tại.

Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào đâu, để có thể vừa dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được số đông người. Số người ấy thì đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật chưa hề lúc nào có một thần thức bị trừng phạt phải đau khổ đến thế.

Một hôm, trong cơn xiêu giạt, nó bỗng trông thấy bóng của hai ông khách khi xưa đã đến ngủ ở am. Vội vã, nó bay theo, vái chào và kể nỗi niềm đau đớn:

– Hai ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có hay đâu tôi phải mang cái nghiệp vô định này. Đã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến.

Hai ông khách đáp:

– Chúng tôi đâu dám lên mặt thầy đời mà dạy người, huống chi lại dám đèo bòng mang lại một giải pháp cho một vấn đề nan giải. Nhưng đã lỡ gieo trong trí ngươi một ý nghĩ làm cho ngươi phải khổ như bây giờ, thì phải góp ý kiến để cho ngươi suy xét mà gỡ rối. Âúy gọi là chuộc lỗi.

Hồn con thằn lằn gật đầu, cảm ơn trước. Một người khách nói:

– Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy việc đem ý hay lời đẹp mà làm cho vui lòng kẻ đọc mình, kẻ nghe mình – rồi lấy sự hứng thú của người làm sự sung sướng của mình, cho đó là sự “đắc đạo” của bản thân. Nếu phải mong muốn nói ra điều gì để khuyên nhắc người khác, thì buộc phải cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa : được người khác vui lòng ưa muốn lắng nghe thì gọi là được việc, bằng không vừa ý người đọc người nghe, thì thôi, chứ không bao giờ ép buộc kẻ khác thuận theo ý mình, chẳng hề khi nào phạm đến tự do của người…

Nghe đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:

– Xưa nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc, kể một chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ nầy được truyền ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, thì cố gắng trau dồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể cảm hóa triệu triệu người… Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn chương của ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người một điểm lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên…

Hồn con thằn lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói rằng:

– Con đường ấy khó đi cho đến hết được, song chắc chắn là đi tới mục tiêu cuối cùng, ắt có thể dẫn tôi đến trước tòa sen mà chầu đức Phật. Vậy tôi xin cố gắng.

H.H.T
 

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here