“Boong, boong…” – tiếng khánh quen thuộc lại vang lên. Đã thành thói quen, Htet Htet cầm nồi cơm và thức ăn đứng chờ sẵn. Khi các nhà sư đến, cô tụt dép ra, khoác tấm vải nâu lên vai, cúi đầu lạy rồi bưng cơm trút vào bình bát…
Hàng ngàn năm qua, cúng dường đã trở thành nếp sống của người dân Myanmar. Cứ mỗi sáng sớm, các nhà sư Myanmar lại “đi bát” (khất thực). Theo Phật giáo Nam tông nguyên thủy (Theravada), nhà sư không được kêu gọi cúng dường. Vì vậy, trước đoàn đi thường có hai giới tử thiếu niên (cũng đi tu nhưng chỉ mới thọ 10 giới) khoác bộ đồ trắng, vừa đi vừa gõ khánh báo hiệu để người dân biết. Không như ở VN đi riêng lẻ, các nhà sư ở đây “đi bát” theo từng đoàn. Một hàng dọc các nhà sư choàng áo đỏ, đi chân đất, tay cầm quạt, tay ôm bình bát cúi đầu im lặng bước. Cuối hàng là hai giới tử khác đẩy theo hai cái nồi lớn. Thức ăn cúng dường, khi đầy bình bát lại được trút vào đó. “Theo giới luật, các nhà sư chỉ được ăn trước 12 giờ trưa. Đồ ăn mang về, ngoài để các nhà sư dùng bữa, còn để nuôi những đứa trẻ trong tu viện”, Vũ Nguyên Phương, người từng tu gần 3 năm tại Myanmar, cho biết.
Một đoàn nhà sư Myanmar “đi bát” vào buổi sáng sớm – Ảnh: Nguyễn Tập |
Ở đất nước này, tinh thần Phật giáo thấm sâu trong mỗi người dân đến nỗi bất kỳ ai cũng có thể một ngày nào đó rũ bỏ tất cả để… vào chùa.
Đất nước của dép
Myanmar còn là đất nước của dép vì hầu hết người dân bất kể nam, nữ, già, trẻ đều đi dép xỏ ngón. Ngay cả những ông bận comple, đeo cà vạt rất trịnh trọng nhưng chân vẫn mang… dép. “Cuộc sống của người Myanmar hầu như không thể tách rời khỏi chùa chiền. Mà theo phong tục, vào chùa phải đi chân đất nên người Myanmar mang dép cho tiện”, một người bạn Myanmar giải thích. |
“80 – 90% dân Myanmar từng vào chùa tu tập từ vài ngày đến vài năm. Chuyện cô học trò nhân dịp nghỉ tết, cạo đầu vào chùa tu, ra tết lại mang cái đầu trọc tếu xách cặp đi học là “chuyện bình thường ở huyện”, chẳng ai trêu chọc, chê bai”, Phương nói.
Thậm chí, không cần vào chùa tụng kinh, cũng không cần khoác áo cà sa, mỗi ngày, người dân Myanmar vẫn “tu” bằng chính lối sống của họ: thật thà, hiền lành và hiếu khách.
Nụ cười Myanmar
Ngồi viết những dòng cuối cùng cho chuyến đi hơn 10 ngày, trước mắt tôi lần lượt hiện lên những điều đã qua như thước phim chiếu chậm. Có những con người, những câu chuyện tôi đã kể trong bài viết. Có những chuyện chỉ nhẹ nhàng thoáng qua nhưng vừa đủ nhắc nhớ về một vùng đất hiền lành, hiếu khách. Thật lạ, khi những khoảnh khắc dừng lại, điều còn đọng lại trong tôi đơn giản là những nụ cười. Đó là nụ cười “chọc quê” của những cô gái Myanmar khi tôi xoa thanakha lên mặt; đó là nụ cười an nhiên của những người dân xóm nghèo bên kia sông; là nụ cười thân thiện của một người lạ mặt chạy xe máy cả chục cây số hướng dẫn tôi mà vẫn cương quyết không nhận bồi dưỡng: “Đừng ngại! Anh là khách phương xa đến Myanmar, chúng tôi đương nhiên sẽ tiếp đón”.
Người Myanmar tin rằng, nếu bạn muốn một điều gì, hãy đến hàng chuông xung quanh bảo tháp tại một trong ba ngôi chùa linh thiêng nhất ở Myanmar là Shwedagon (Yangon), Mahamuni (Mandalay) và Kyaikhtiyo rồi gõ chuông ba lần, mong ước sẽ thành hiện thực. Ngày cuối cùng ở Myanmar, tôi trở lại chùa Mahamuni. Tôi muốn trở lại đất nước này, đi lại những nơi vừa qua, gặp lại những con người vừa gặp. Thật chậm. Tôi đứng trước cái chuông linh thiêng, tần ngần cầm dùi hồi lâu rồi bỏ xuống, không gõ. Tùy duyên, tôi nghĩ thế, nhưng tận thẳm sâu tôi tin rằng chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau, phải không Myanmar?