Sáng ngày 02 tháng 05 năm 2014 nhằm ngày 04 tháng 04 năm Giáp Ngọ tại chùa Phổ Quang, thành phố Huế; chư Tăng bổn tự đã thành kính trang nghiêm tổ chức Lễ húy nhật cố Hòa thượng Thích Chánh Pháp (1913 – 1985).
Quang lâm dâng hương tưởng niệm có chư tôn đức Giáo phẩm chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế; chư tôn đức Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh TT. Huế; chư tôn đức Tăng Ni các tổ đình, tự viện, Niệm Phật Đường trên địa bàn tỉnh cùng đông đảo bà con Phật tử các giới.
Hòa thượng Chánh Pháp pháp danh Tâm Quang, thế danh Nguyễn Hữu Trừng, đời thứ 43 dòng thiền Lâm Tế. Ngài sinh ngày mồng 4 tháng 4 năm Quý Sửu (1913) tại làng An Xuân, xã Quảng Lộc, quận Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, (nay là xã Quảng An, huyện Quảng Điền); trong một gia đình truyền thống Nho giáo nhưng lại thấm nhuần tư tưởng Phật giáo nhiều đời. Chính vì vậy mà Ngài đã sớm có ý nguyện xuất gia.
Thân phụ ngài là cụ Nguyễn Hữu Thanh, về sau xuất gia học Phật có pháp danh là Trừng Tịnh, tự là Diệu Thanh. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Nguyện, Ngài có 5 anh em tất cả và Ngài là con thứ 3 trong gia đình.
Năm lên 14 tuổi, thân mẫu Ngài quá vãng, nhân lúc cung thỉnh chư vị Đại đức Tăng về cầu nguyện cho mẹ, qua phong thái cốt cách xuất trần của chư Tăng mà chí nguyện xuất gia càng được un đúc thêm trong tâm tư của Ngài.
Cư tang mẹ xong, chí xuất trần đã đến hồi quyết định, được sự chấp thuận của thân phụ, Ngài từ biệt gia đình vào chốn thiền môn.
Bước đầu, Ngài vào Tổ đình Tường Vân tham yết Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh xin được xuất gia, được Hòa thượng Tịnh Hạnh chấp nhận và truyền trao giới pháp tam qui ngũ giới, đặt pháp danh là Tâm Quang. Song chẳng bao lâu, Đại lão Hòa thượng Tịnh Hạnh viên tịch. Ngài lại tham cầu học đạo với Hòa thượng Tịnh Khiết. Do học với hạnh đều khả quan, chí với nguyện đều xứng đáng nên năm Đinh Sửu (1937) Ngài được chính thức thế độ thọ Sa-di giới tại Tổ đình Tường Vân với pháp tự là Chánh Pháp.
Sau khi được thọ Sa-di giới, Ngài lại càng chuyên tâm tu học hơn nữa. Tám năm sau, tức năm Giáp Thân (1944), Ngài được Hòa thượng Tịnh Khiết cho thọ Cụ túc giới tại Giới đàn Thuyền tôn do Đại lão Hòa thượng Giác Nguyên làm đàn đầu.
Năm Mậu Tý (1948), Ngài được Sơn môn Tăng già Thừa Thiên bổ nhiệm làm trú trì chùa Phổ Quang – Huế. Tại đây, với khả năng của mình, không những nỗ lực không biết mệt mỏi trong công tác tiếp chúng độ sanh, mà Ngài còn tô bồi ngôi phạm vũ từ chỗ hoang tàn suy sụp thành ngôi chùa cổ kính trang nghiêm mà ngày nay ai ai cũng biết đến.
Năm Quí Sửu (1973), sau khi Hòa thượng Tịnh Khiết, trú trì Tổ đình Tường Vân viên tịch, Ngài được chư Tăng Ni trong Tông môn mời trông coi Tổ đình, để đôn thúc, hướng dẫn Tăng chúng tu học. Trong thời gian giữ chức trông coi Tổ đình, Ngài đã dùng kinh nghiệm tu tập để dẫn dắt đồ chúng, trang nghiêm phạm vũ, Ngài đã góp phần xây dựng Tổ đình ngày thêm rạng rỡ, đồng thời đem lại cho Tăng chúng, Phật tử niềm tin mãnh liệt vào chánh pháp.
Tháng 5 năm 1982 (Nhâm Tuất), khi Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên thành lập, Ngài được cung thỉnh vào hàng thành viên chứng minh của Giáo hội tỉnh.
Trong cuộc đời tu học, Ngài đã khéo léo dung nhiếp Thuyền Tông và Tịnh độ, cẩn mật hành trì giới luật. Ngài sống một cuộc sống hết sức đơn giản bình dị, tâm chí thì cương trực, kham nhẫn khi gặp mọi trở lực, hành động thì hết lòng phụng sự đạo pháp. Trên bước đường hoằng pháp lợi sanh, Ngài không từ nan bất cứ nhiệm vụ nào.
Cảm nhận về cuộc đời của Ngài, Hòa thượng Thiện Trí, Trú trì chùa Hiếu Quang đã tặng Ngài 2 câu đối:
Qua ỷ tùng biên duy hữu trượng phu tri ngã khổ
Giá sanh trúc bạn ư dư quân tử thức ngô cam.
Và một bài châm rằng:
Thiện tại hành giả
Thiếu thời ly tục
Đồng tuế xuất gia
Xu chánh tỵ tà
Hản lao nhẫn khổ
Thi công bất cố
Khắc kỷ nại hà
Thân tự trác ma
Tòng lâm y chỉ
Tôn lưu lâm tế
Phái diễn Tường Vân
Tăng thống thùy lân
Nạp vi Pháp tử Ân cần Phật sự
Bồi thực thiện căn
Giới hạnh tinh thuần
Phong tư nhã đạm
Tùy cơ phú cảm
Tùy ngộ nhi an
Thiệp thủy đăng san
Tham phương phỏng đạo
Nhơn duyên thành tựu
Y chánh đàng hồng
Cổ sát Phổ Quang
Chủ trì đương nhiệm
Từ bi nhất niệm
Trí huệ vô biên
Minh nguyệt đương nhiên
Huyền châu ánh hải
Cam lồ phổ Sái
Pháp vũ quân tư
Đức trạch đàn na
Phẩm tiêu liên xả
Dư chi bạn lữ
Khích thiết kỳ tình
Liêu tụng hữu thiên
Dĩ minh chi hỷ.
Thi viết:
Đương nhiên hồi thủ mích tâm chơn
Tảo hướng không môn liễu vọng trần
Y chánh trang nghiêm thù chí nguyện
Sắc không tự tại biểu tăng luân.
Đầu năm Ất Sửu (1985) vốn linh cảm được sự hóa duyên sắp mãn, Ngài đã đến thăm viếng các Tổ đình như: Báo Quốc, Từ Đàm, Trúc Lâm và các chùa Hồng Ân, Diệu Đức, Tháp Yết Ma, Tổ đình Tường Vân v.v… Ngài ân cần khuyên bảo đồ chúng bổn tự tinh tấn tu học, thương yêu dìu dắt lẫn nhau trong đạo nghiệp tu học, đồng thời cố gắng góp phần công đức với chư Tăng Ni chung lo Phật sự giáo hội, giúp đỡ tín đồ.
Qua một thời gian thị bệnh và tịnh dưỡng, vào lúc 10 giờ ngày 5 tháng 4 năm Ất Sửu, sau Lễ vía Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát mấy giờ, Ngài đã an nhiên thâu thần thị tịch giữa tiếng tụng kinh niệm Phật của Tăng Ni, Phật tử cùng môn đồ hiếu quyến. Ngài trụ thế 73 năm và 42 hạ lạp.
Ngọc Hiếu (Ban Truyền thông Phật giáo tỉnh)