Trang chủ Vấn đề hôm nay Chiến tranh và hoà bình theo quan điểm của Phật giáo: P...

Chiến tranh và hoà bình theo quan điểm của Phật giáo: P 7 và Kết luận

140
0

————————-

Tại Miến Điện, Aung San Suu Kyi được nổi danh nhờ tinh thần đối kháng với chế độ quân phiệt theo chủ nghĩa Mác xit dân tộc, mà chế độ này không tôn trọng những chiến thắng vang dội của đảng bà trong những cuộc bầu cử trong năm 1990.  Tại Thái, Sulak Sivaraksa đã thành lập những tổ chức phi chính phủ phục vụ hoà bình, nhân quyền, phát triển cộng đồng và đối thoại liên tôn và chống lại đảo chính của quân đội.  Tại Việt Nam, Thích Nhất Hạnh có những nổ lực chống chiến tranh từ năm 1964-75 và trợ giúp người tỵ nạn. Tỵ nạn tại Pháp vào thập kỷ 70, ông là nhà văn sáng tác rất nhiều về các đề tài Phật giáo và hoà bình và cổ vũ cho phong trào Phật giáo vào đời.  Một ngưòi tỵ nạn khác là Đức Lai Lạt Ma, ngài đã trở thành một biểu tượng trên toàn thế giới về giá trị Phật giáo. Là ngưòi đứng đầu chính phủ lưu vong tại Tây tạng đóng ở Bắc Ấn, ngài đã tranh đấu không mệt mỏi để dành lại quyền kiểm soát lảnh thổ cho ngưòi Tây Tạng do người Trung Quốc chiếm. Ngài luôn chống đối sử dụng bạo lực và thúc đẩy về tinh thần từ bi và trách nhiệm phổ quát trong một thế giới ngày càng tương thuộc nhau hơn.  Các Phật tử đấu tranh cho hoà bình cũng có mặt ở Nhật, Sri Lanka và Kampuchia. 

Những hoạt động hổ trợ cho hoà bình thuộc tông phái Nhật Liên tại Nhật 

Trong thời kỳ hậu chiến tại Nhật một số tông phái Phật giáo đã tích cực hoạt động trong lĩnh vực hổ trợ cho hoà bình. Một trong những tông phái được kể đến nhiều nhất là Nhật Liên tông mà con số tín đồ lên đến 30% Phật tử người Nhật. Cứ theo bề ngoài mà xét thì người ta không kỳ vọng lắm tông phái này sẽ theo đường hướng hiếu hoà, mà vị lãnh đạo  môn phái là Nichiren Daishònin (1222-82), một người cực đoan trong việc tấn công vào các tông phái Phật giáo khác vì ông coi họ là những kẻ phá hoại đất nước, kể cả việc ông còn đòi chính quyền phải đàn áp họ. Tuy thế, ông đã có một viễn kiến về việc cải thiện phúc lợi xã hội cho Nhật, mặc dù ông nhìn theo nhản quan thuần túy Phật giáo. 

Nippozan Myòhòji là một tăng đoàn nhỏ thuộc tông phái Nhật Liên, dâng hiến hoạt động của mình cho hoà bình thế giới, chống đối lại chạy đua vủ trang và vũ khí hạch tâm. Nichidatschu Fujii (1885-1985), người sáng lập ra tông phái này đã đề cao giáo huấn chống sát sinh. Ông đã bị ảnh hưởng khá sâu đậm tư tưởng của Gandhi mà ông gặp vào năm 1933.  Đối với Fujii không có gì là hợp lý khi giết người. Tư tưởng của Nhật Liên tông là giết một người để cứu vạn người là điều có thể tha thứ. Ông coi lập luận này là có thể chấp nhận được khi giết ông vua hung bạo, nhưng lại là nguyên tắc nguy hiểm mà tên sát nhân lạm dụng nhằm bảo vệ chính mình. Đối với Fujii việc quan trọng nhất là làm sao cứu muôn vạn sinh linh mà không giết chết một người nào. Không bao giờ tướt đoạt sinh mạng của người khác, dù họ thiện hay ác.Trong thời kỳ đệ nhị thế chiến, năm 1944, ông chủ trương kết thúc chiến tranh sớm hơn và đề cao hoà bình. 

Tăng đoàn Nippozan Myòhòji đã lập hơn 60 An Hoà Tự tại Nhật, kể cả tại Hiroshima và Nagasaki, hai tu viện tại Ần và một tại Sri Lanka. Vào cuối thập kỷ 70 một vài vị sư của tăng đoàn đã đến nước Anh và có quan hệ tới các cuộc diễn hành cho chiến dịch giải giới vũ khí hạch tâm. Năm 1980 họ thiết lập tu viện Stùpa tại miềnTây của nước Anh, đặc biệt tại Milton Keynes.  Các tu viện khác được thành lập sau đó tại Vienna (1983), Massachuettes (1985) và Luân Đôn (1985) mà gây ấn tưọng nhất là một tháp cao 34 mét tại công viên Battersa bên dòng sông Thames. Là những thành viên tích cực trong các phong trào chống chiến tranh và giải giới vũ khí hạch tâm, họ cho rằng sự hiện diện của các tu viện và uy lực tâm linh của các thánh tích Phật giáo mà các nơi này bảo tồn sẽ là một ngọn đuốc soi đường cho hoà bình trong một thế giới tao loạn.

Tại Nhật thời hậu chiến có nhiều tôn giáo mới được thịnh hành tột bực nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của thị dân. Đa số họ được cư sĩ hoằng hoá, một vài người có tu theo Nhật Liên tông. Một trong số tông phái này là Soka Gakkai đã thành công một cách đặc biệt. Khởi đầu như một hiệp hội nhằm cải cách giáo dục, năm 1930 hội này đã trở thành một chi phái của Nhật Liên tông. Dù được tách ra vào năm 1991, nhưng các sư tăng lại thấy rằng chi hội đã trưởng thành và lớn mạnh hơn chính phái. Trong đệ nhị thế chiến, hai vị trưởng lão đã bị bắt giam khi họ chỉ trích những nổ lực chiến tranh, không tuân theo đường lối của chính phủ khi tìm cách thống nhất Nhật Liên tông với các tông phái khác. Josei Toda (1900-58) một vị trưởng lão còn sống sau khi bị cầm tù đã cho biết việc Nhật bại trận và những cảnh ngộ khó khăn sau chiến tranh bắt nguồn từ việc tuyên truyền cho Thần đạo và xem thường chân lý của Nhật Liên tông. 

Trong thời hậu chiến, Soka Gakki được lãnh đạo bởi Toda và Daisaku Ikeda (1928 -) mà cả hai là đầu mối cho phong trào cải đạo. Phong trào này đã thành công khi nhắm vào nhu cầu của các thị dân trong thời kỳ khó khăn và thay đổi. Phong trào này lớn mạnh nhanh mà thoạt đầu dùng những kỳ thuật cải đạo khá táo bạo. Trong khi họ còn giử quan điểm rằng để có thể chiếm một cách độc quyền để duy trì chân lý tôn giáo, họ sẽ không hợp tác vấn đề tôn giáo với bất cứ một tông phái hay một tôn giáo khác, nhưng họ cởi mở hơn và hợp tác trong những vấn đề môi sinh, hoà bình, nghệ thuật và trao đối văn hoá.  

Ikeda đã tham dự nhiều cuộc hành hương cho hoà bình, ông đề nghị về giải giới hoặc làm giảm đi những xung đột tại những nơi tranh chấp xôi động hoặc gặp gở những lãnh tụ tôn giáo và chính trị thế giới như Mikhail Gorbachev để thảo luận về tầm quan trọng cuả những vấn đề văn hoá.  Phong trào này đã tổ chức những cuộc trao đổi học sinh với Trung quốc và Liên xô để nhằm xoá tan những ngăn trở giửa các dân tộc  và nhấn mạnh đến vấn đề lý tưởng nhân quyền. Phong trào này còn hổ trợ cho Liên Hiệp Quốc và Phủ Cao Ủy Tị Nạn, đã tổ chức gây quỷ cho Cao Uỳ tị nạn và trại tỵ nạn tại châu Á và châu Phi. 

Soko Gakkai rất tích cực hổ trợ về giaó dục hoà bình, tìm cách đem lại hoà bình thế giới. Ikeda tin rằng sức mạnh của quân đội hiện đại phải coi như hoàn toàn khác biệt với lực lượng phòng vệ dân sự mà người ta đã quen thuộc qua thời gian. „Tôi thấy không có lý do gì để biện minh cho quyền lực quân sự trong thế giới ngày nay… Tôi tin rằng những khuôn mẩu cho việc tiến hành một cuộc chiến với danh nghĩa thật sự cho mục tiêu phòng vệ dân sự  thật là khan hiếm.“  

Ikea công nhận bản chất và phí tổn cho vũ khí hiện đại, nhưng ông nói phòng vệ dân sự bằng vũ khí chỉ đạt được mức độ giới hạn của nó….“Đã đến lúc chúng ta trở về những nguyên tắc khởi thủy. Khởi điểm mới của chúng ta phài là quyền sinh tồn của dân tộc trong toàn thế giới, không phải chỉ dành cho một đất nưóc nào.“ 

Giống như Đạt Lai Lạt Ma, Soka Gakkai nhấn mạnh rằng thế giới là một mạng lưới tương thuộc mà ta cần phải học hỏi để làm việc trong hài hoà.  Ông nói vũ khí hạch tâm là tội ác cùng cực, phải tìm cách phá hủy nó và phải cải thiện bản tính hung ác của con người muốn sử dụng nó. Trong khi hệ thống giáo dục hiện đại của Nhật lại không chú trọng đặt lại vấn đề quân đội Nhật đã phạm tội ác tại Trung Quốc và trong Đệ nhị thế chiến, Soka Gakki tìm cách mang lại sự quân bình khi xuất bản hàng loạt các sách vở ghi lại những hình ảnh về chiến tranh. Việc này nhắm mục tiêu đề cao tinh thần phản chiến và đảm bảo rằng Nhật sẽ không lập lại những lỗi lầm trong quá khứ. Đã có nhiều cuộc triển lảm về những hình ảnh ghê tởm của chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh nguyên tử.  

Một trào lưu tôn giáo khác cũng dựa vào Nhật Liên tông là Rissho-Kỏseikai vào năm 1938. Tông phái này kết hợp giửa kinh Liên Hoa và giáo lý Thích Ca Mâu Ni, thờ cúng tổ tiên, thực hành Bát Chánh Đạo và tu tập theo hạnh Bồ tát. Họ rất tích cực trong phong trào hòa bình mà họ quan tâm sự sám hối của Nhật qua Đệ Nhị thế chiến dù  chính phủ Nhật không hề công nhiên minh xác. Vào thập kỷ 70 các hội viên thuộc Hội Thanh Niên Phật tử Risshỏ-Kosekai đã lập ra một tháp hữu nghị tại Phi Luật Tân. Đây là một nổ lực nhằm đem lại sự hàn gắn những đau khổ do nguòi Nhật gây ra. Khi nhà lãnh đạo của hội này là Nikkyò Niwano đến Singapore vào năm 1975, ông đến viếng đài tuởng niệm những người dân bị Nhật giết. „Khi chúng tôi dừng xe lại thì từ trong tận đáy lòng của chúng tôi, chúng tôi cầu nguyện trước tháp đền.“  Ông ta biểu lộ lòng hối tiếc xâu xa về việc Nhật tấn công Trân Châu Cảng và về những hành vi trộm cướp của lính Nhật tại Trung Quốc trong thập kỷ 1930. 

Nhiều cá nhân người Nhật cũng đã ăn năn đối với hành vi của nước Nhật trong chiến tranh. Takashi Nagase, người đã từng là thông dịch viên cho cảnh sát hoàng gia Nhật, đã là một người trong số họ.  Dù ông tình nguyện chiến đấu trong chiến tranh và ông tin trung thành tuyệt đối với nhà vua, ông đã thấy được sự tàn ác của bao đồng đội gây ra cho tù binh đồng minh khi xây đường xe lửa Miến Điện và Thái và thiệt hại nhân mạng. Ông đã có cơ hội thấy điều này và gây cho ông thay đổi lòng mình. Trở lại Nhật, ông chịu nhiều xúc động khi hồi tưởng đến những cảnh đối xử bất nhân và ông tự nguyện rằng dùng hết cuộc đời mình để tự xử chính mình và đền tội đã phạm trong chiến tranh. Năm 1963 ông trở lại nơi đã xây cầu Kwai tại Thái và từ năm 1995 ông trở lại nơi đây 86 lần. Kể từ năm 1976, ông tổ chức cuộc họp mặt thường niên giửa các người Nhật và các cựu tù binh, lập công viên tưởng niệm và cấp học bổng cho các con cháu của một số người bị bắt làm lao nô tại Thái. Năm 1986, ông xây một tu viện Phật giáo cho hoà bình để cầu siêu cho người quá cố. Ở đây ông quy y ngắn hạn thành một nhà sư theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy của Thái. Ông đã gây tình thân hửu với các cựu tù nhân. Một người trong họ đã mô tả ông là một trong những người cao cả mà họ gặp được.

Sarvòdaya Sramadàna. một lực lượng xoa diụ xung đột tại Sri Lanka

Stanley Tambiah, khi phê bình về những khiá cạnh liên quan đến Phật giáo trong xung đột về sắc tộc tại Sri Lanka, ông có đề cập tới hai điểm. Thứ nhất là lý tưởng hoá quá khứ khi chú trọng ý kiến của minh vương Cakkavatti khi mà vua bày tỏ lý tưởng về một nền luật pháp hướng về phúc lợi. Thứ hai là khi sách biên niên sử ghi lại những văn minh Phật giáo Tích Lan như là một xã hội nông nghiệp hợp tác bình đẳng. Tambiah là một ngưòi Tamil ở Tích Lan cũng là một nhà nhân chủng học Phật giáo Đông Nam Á nổi tiếng, ông nhìn một cách khá cay đắng trước khi cố tìm ra những lý tưỏng xa xưa để phác hoạ cho xã hội đương đại, mà ông thấy là lý tưởng này chỉ là kết hợp vào trong chủ nghiã dân tộc Tích Lan. Cho dù đây là một sự nối kết không cần thiết nhưng cũng đã có những yếu tố tích cực thực sự trong viễn kiến này, nếu những lý tưởng này có thể được tách rời ra khỏi chủ nghĩa bảo tồn và tôn vinh sắc tộc. 

Một trào lưu đã bắt nguồn từ trong một vài lý tưởng này. Nhưng thực ra một động lực cho sự hài hoà xã hội tại Sri Lanka là phong trào tự phát triển nông thôn Saryòdaya Sramadàna. Đây không phải là một tổ chức thuần túy Phật giáo. Dù vậy, tổ chức này đã ảnh hưởng sâu đậm từ Mahàtma Gandhi và giáo phái Tin lành Quakerism. Khi công nhận những công việc của mình là đóng góp cho hoà bình thì ngưòi sáng lập và ảnh đạo của tổ chức này là Ariyaratne đã được để cử nhận giải Nobel hoà bình và đã lảnh giải hoà bình Niwano của Risshò-kỏsei kai.  

Mục tiêu chủ yếu của phong trào này là xoá bỏ các ngăn cách giửa các dân tộc, đặt trên cơ sở giai cấp, đảng phái chính trị, tài sản, tuổi tác, giới tính, sắc tộc hay tôn giaó, thúc đẩy dân chúng cùng sát cánh bên nhau làm việc để cải thiện các cơ sở điạ phương. Một trọng điểm của tổ chức này tạo cho phự nử mạnh dạn lên tiếng nói và tích cực hơn trong việc phác hoạ cuộc đời của họ. Vào cuối thập kỷ 80, phong trào này là một tổ chức duy nhất có thể hoạt động khắp nơi trên đất nước, khi chính phủ không thể tới được những nơi do kháng chiến Tamil chiếm đóng.  Dân chúng từ hai vùng Tích Lan và Tamil trao đổi thăm viếng nhau, người Tamil viếng chùa Phật và người Tích Lan viếng đền thờ Hồi giáo.  Ngưòi Tamil có vị thế lãnh đạo  trong tổ chức Sarvòdaya và khi người Tamil hợp tác thì coi đây như là tổ chức chung của Sri Lanka hơn là một tổ chức Phật tử của ngưòi Tích Lan.  Tại các địa bàn hoạt động của Sarvòdaya người ta tổ chức thánh lể liên tôn, người theo tôn giáo thiểu số trong khu vực luôn đưọc mời cử hành thánh lễ trước.  Một vài sư tăng Phật giáo có quan hệ tới phong trào do cư sĩ  hướng dẫn theo Ariyaratne, nhưng một vài người khác trong tăng đoàn lại tỏ ra có quan điểm cứng rắn chống lại mọi sư nhân nhượng cho người Tamil. Có một vài vị sư làm việc trong khu vực do người Tamil chiếm đóng đã cố tìm cách giúp đở người Tamil tiếp xúc với thân nhân của họ khi bị lực lượng an ninh bắt giử.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                     Viễn kiến của Ariyatane cho tương lai của Sri Lanka là tạo một mạng lưới của cộng đồng tản quyền mà mổi ngưòi cùng làm việc đều mang lại điều tốt đẹp cho bản thân và tha nhân. Giống như hầu hết người Tích Lan, dù vậy, tổ chức này cũng không muốn Sri Lanka bị chia làm hai mảnh. Lý tưởng của họ là có đưọc một đất nước thích nghi với sự dị biệt trong nội bộ dựa trên lòng khoan dung dựa trên lý tưỏng xuất phát từ Phật giáo. Tư tưởng này bắt nguồn từ Mahàtma Gandhi và gây được cội rể sâu xa trong Ấn Độ giaó. 

Trong cuộc tạo loạn vào năm 1983, Ariyaratne đã yêu cầu vị chủ tịch của mình tuyên bố lệnh giới nghiêm tức khắc nhưng không thành công và ông đã đơn phương thiết lập trại tỵ nạn.  Sau cuộc nổi dậy, tổ chức này đã có một cuộc hội thảo toàn quốc mà 2000 vị lãnh đạo  tinh thần và dân sự cùng nhau tìm ra những phương cách để giải quyết tranh chấp. Hội nghị đã đưa ra „Bảng Tuyên bố của toàn dân về hoà bỉnh và hòa giải dân tộc“ do tổ chức Savòdaya đề xuất. Bảng tuyên bố này nhấn mạnh rằng chỉ có không hận thù mới xoá bỏ hận thù, một nhu cầu cho một cuộc đối thoại thân hữu dựa trên những nguyên tắc chân lý và bất bạo động.  Họ đề nghị một cuộc diễn hành cho hoà bình từ phía nam Tích Lan đến Jaffna, một pháo đài của quân kháng chiến Tamil. Mặc dù khởi đầu có hàng ngàn người tham dự, nhưng chính phủ khuyến cáo là nên dẹp bỏ.  Những cuộc diễn hành cho hoà bình ngắn hơn tiếp đó trong nhiều năm sau tại vùng cao nguyên. Được các nhà tài trợ phương Tây giúp đở, phong trào này trở thành tác động chính nhăm gây qủy cứu trợ và tiếp tế cho người tỵ nạn.  Năm 1994, Ariyanata đã thăm Jaffna nhằm cố tìm một giải pháp cho cuộc xung đột về sắc tộc. 

Kế hoạch chiến lược của Sarvòdaya vào những năm 1995-8 cho thấy tổ chức phong trào đã có vai trò trong việc tái hội nhập quốc gia nhằm giải quyết những vần đề nghèo khó và những uớc mơ về lối sống không đạt được, giúp giải quyết những vấn đề sắc tộc, trợ giúp người tỵ nạn và trẻ mồ côi. Công tác này cùng song hành với những trọng điểm của họ về các nhu cầu cơ bản của con người, từ vật chất đến tinh thần nhằm tránh đói nghèo và tiêu thụ xa xỉ. Một trong ba ưu tiên của họ là giử một vai trò kiên quyết trong giải quyết xung đột và kiến tạo hoà bình.  Ariyaratne nhấn mạnh rằng nghị quyết giải quyết tranh chấp sắc tộc gắn liền với giáo dục tạo đoàn kết cho những người trong cộng đồng.  Ông nhấn mạnh rằng việc thúc dục chiến thắng kẻ khác không luôn mang lại một tình trạng kẻ thắng người thua, mà là tình trạng cả hai đều thua.  Theo đường lối này, tổ chức đã lập ra hàng loạt các cuộc hội thảo, dựa trên những học tâp kinh nghiệm, với sự hổ trợ của Asia Foundation, họ đã tổ chức huấn luyện cho 600 tăng sư thuộc Sarvòdaya dấn thân vào việc giải quyết các tranh chấp và hòa giải tại các xã thôn.  Burr cho biết rằng bước khởi đầu của công tác này, các tham dự viên sẽ cùng chia sẻ các quan điểm về các loại tranh chấp, phân loại tùy theo mức độ rồi cùng nhau suy nghĩ về mức độ mà các tranh chấp này có thể mang lại những kết quả tích cực. Họ cùng thảo luận nguyên nhân của xung đột theo quan điểm Phật giáo, đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của lòng tham, vô minh, cố chấp và nghèo khó. Điểm nhấn mạnh là cách giải quyết tranh chấp cần phải có một lộ trình thật cẩn trọng, một sự mô tả thật khách quan, thiện cảm cho nhu cầu này và quan tâm của các phe liên hệ. Để đạt điều này, chú tâm lắng nghe là điều cần thiết. Người ta cần khằng định vấn đề hơn là công kích hay thụ động. 

Tác động của Phật giáo trong việc khôi phục Kampuchia

Kampuchia, sau khi bị bom của Mỷ tàn phá trong chiến tranh Việt Nam, kể từ năm 1975 lại là nạn nhân dưới sự lãnh đạo công sản Khmer Đỏ mà họ theo hệ tư tuởng Mao. Mục tiêu theo đuổi của họ là thiết lập một xã hội công bình, với ảo tưởng dựa trên nông nghiệp tự túc, không lệ thuộc ảnh hưởng ngoại lai. Thực tế, điều này có nghiả là xoá bỏ nền văn minh hiện hửu, thị dân bị cưởng bức thành nông dân trong các trại hợp tác hoá cưc kỳ hà khắc, bệnh viện bỏ trống chỉ có y học dân tộc được chấp nhận, tu tập theo tôn giáo bị xử tử. Trong nhiều lảnh vực, sinh hoạt gia đình bị huỷ bỏ, nơi nào còn tồn tại thì trẻ con có quyền ra lịnh cho ngưòi lớn. Khmer Đỏ đã hành quyết một cách có hệ thống những ngưòi chống lại họ. Họ chọn ra những ngưòi sắc tộc thiểu số, những người có học vấn, các tăng ni mả họ coi là sống bám xã hội. Họ lập ra một cánh đồng tàn sát (killing fields) và giết từ 2 đến 3 triệu người bằng cách bỏ đói, bệnh tật, làm việc kiệt sức, tra tấn, hành hình, gia đình phân tán, tuyệt vọng và bị trầm cảm.  Dưới thời kỳ cai trị của Khmer Đỏ hầu hết 3600 tu viện Phật giáo đã bị phá huỷ và chỉ còn lại khoảng 3000 sư tăng trong số 50000 còn sống và nhiều ni cô đã chết. 

Một điều may mắn khi Khmer Đỏ tấn công vào biên giới Việt Nam bị Việt Nam phản công lại Kampuchia. Với sư đồng tình của nhửng người Khmer Đỏ ly khai, Việt Nam kiểm soát Kampuchia vào năm 1979. Thập kỷ 1980 đã chứng kiến xung đột có vũ trang liên tục giửa Khmer Đỏ, lực lượng dân tộc và chính quyền do Việt Nam lập ra. Năm 1989, do áp lực của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã rút quân để lại một chính phủ bù nhìn. Năm 1991, tất c ả các phe đã ký một hoà ước do Liên Hiệp Quốc thu xếp, nhằm dự liệu một chính phủ lâm thời bốn bên, đưa tới tổng tuyên cử vào năm 1993. Trong khi hoà ước cố chấm dứt bạo lực Khmer Đỏ bằng cách cho họ tham gia vào trong tiến trình hòa giải dân tộc. Họ tỉếp tục những cuộc hành quân, đặc biệt nhất là gần vùng biên giới Thaí phía tây Kampuchia cho đến khi những thúc đẩy cho tiến trình hoà bình đạt được vào năm 1998.  

Một khuôn mặt nổi bật trong công tác hàn gắn và phục hồi đất nước là Maha-Ghosànanda, một vị sư có tầm ảnh hưỏng có thể so sánh với Mahàtma Gandhi và được đề cử nhận giải Nobel hoà bình vào năm 1996. Dith Pran, người là đề tài chính trong phim The Killing Fields đã nói về Ghosànanda như sau: „Dù toàn gia đình ông bị thảm sát trong đại hoạ, ông không tỏ ra chua chát. Ông ta là biểu tượng cho Phật gíao Kampuchia, hiện thân của lòng từ ái, khoan dung và tĩnh lặng của Đức Phật.“  Jack Korfiel nói: „Trong hai mươi năm quen biết với ông, ông là một người biểu hiện cho tôi lòng rộng lượng ngọt ngào, sự can đảm liên tục. Chỉ cần sự có mặt của ông, chỉ cần có nụ cưòi của ông, chỉ có tình thân ái của ông khôi phục được các vấn đề tâm linh.“ 

Ghosànanda xuất gia sau khi chứng kiến những đau khổ của chiến tranh khi đống minh tấn công  Nhật tại Kampuchia. Ông tu học tại Kampuchia và Ấn, sau đó tu thiền tại Thái. Tại Ấn ông làm việc trong một nhóm cứu trợ cho nạn đói tại Bihạr vào năm 1967 và ông đã học những phương thức về hiếu hòa và bất bạo động từ Nichdatsu Fujìi, người cũng đã chịu ảnh hưởng nơi Mahàtma Gandhi ít nhiều. 

Năm 1978, sau khi Khmer Đỏ bị đánh bại, Ghosànanda đến trại tỵ nạn Sa Kaeo tại Thái và phân phối kinh sách về giáo lý từ bi của Đức Phật.  Ông bắt đầu dựng các chùa bằng tre, mặc dù Khmer Đỏ dọa dân chúng trong trại sẽ nguy hiểm đến tính mạng khi hợp tác, nhưng 200.000 người đã tham dự lể khai mạc. Ghosànanda tụng nhiều lần cho dân chúng nghe kinh Pháp cú: „Trên thế gian này hận thù sẽ không chấm dút hận thù; hận thù chỉ chấm dứt bằng không hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa.“ 

Ông thường xuyên nhằc nhở dân chúng rằng hoà bình của đất nước chỉ có thể bất đầu bằng tâm trạng an bình của từng cá nhân. Cùng với đưòng lối này, ông tổ chức cuộc họp hàng tuần cho các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo Phật, Hồi và Thiên Chúa giáo, thúc dục họ cùng làm việc phục vụ cho hoà bình và hoà giải. Tháng tư và năm 1980 đã có khoàng 120.000 ngưòi tỵ nạn trong trại này và các trại khác đã cùng nhau dành hai ngày cho thiền định và cầu nguyện cho hoà bình. Đa số là Phật tử nhưng cũng đã có nhiều tín đồ Thiên chúa và Hồi giáo tham gia.  Lời cầu nguyện cho hoà bình do Ghosànanda soạn ra có đoạn sau đây

„Nổi đau khổ của Kampuchia quá sâu thẩm

Từ sự đau khổ này mà phát sinh lòng từ tâm vô biên 

Lòng từ tâm vô biên đem lại một tâm trạng an hoà

Một tâm trạng an hoà tạo nên một con người an lạc

Một người an lạc dẫn tới gia đình hoà ái

Một gia đình hoà ái tạo nên một cộng đồng yên ổn

Một cộng đồng yên ổn tạo nên một đất nước bình yên

Một đất nưóc bình yên tạo nên một thế giới hoà bình

Cầu xin chúng sinh sống trong hạnh phúc và hoà bình.“ 

Khi tham gia việc tu tập các sư Thái đã giúp xây dựng các tu viện tại các trại tỵ nạn và tổ chức những ngày cầu nguyện cho hoà bình, tổ chức trường học và chương trình giáo dục tráng niên.  Tuy thế, năm 1980 quân đội Thái đã đuổi những người trong trại tỵ nạn Sa Kaeo này về lại bên kia biên giới vì họ muốn không thể dùng trại tỵ nạn để hổ trợ cho Khmer Đỏ và cũng không muốn chuyện này xãy ra thường xuyên. Ý thức được sự khó khăn và nguy hiểm khi phải trở lại Kampuchia, Ghosànanda và các người khác đã tuyên bố dùng trại tỵ nạn như tu viện. Trong khi việc này không làm ngưòi Thái hài lòng vì chỉ có 7500 người Khmer Đỏ trong số 35.000 người tỵ nạn trong trại phải ra đi. 

Ghosànanda làm việc và thăm viếng nhiều trại tỵ nạn và các cộng đồng tỵ nạn định cư khắp thế giới, thiết lập tu viện tại các nơi này, giúp các nhà lãnh đạo  tinh thần xây dựng những chương trình bảo tồn văn hoá giáo dục và tâm linh. Năm 1980, cùng với Peter Pond, một người hoạt động xã hội của Thiên Chuá giaó, ông đã thành lập Uỷ Ban Liên Tôn đặc nhiệm cho hoà bình tại Kampuchia. Họ giúp định cư các tăng ni còn sống sót để họ có thể phục hồi lời khấn nguyện và nằm giử vai trò lãnh đạo  tại các tu viện của Kampuchia khắp thế giới. Với sự trợ giúp của các cư sĩ, Ghosànada đã lập hơn 30 tu viện tại Hoa kỳ và Canada. Ông đã giúp trùng tu nhiều tu viện tại Kampuchia, ông tích cực hoằng hoá các tăng ni trong việc sử dụng kỷ năng bất bạo động và theo dỏi mọi hoạt động về nhân quyền. 

Tại các cuộc hoà đàm do Liên Hiệp Quốc bảo trợ ông đã hướng dẫn một số tăng ni và thúc dục hoà giải và bất bạo động.  Khi dân chúng chống đối sư hiện diện của người Khmer Đỏ trong chính phủ lâm thời, ông cười và nói:„Chúng ta phải có hiểu biết và từ tâm. Chúng ta phải kết án các hành vi nhưng chúng ta không thể ghét người hành động. Với tình yêu thương chúng ta có thể là tất cả mọi  điều nhằm đảm bảo cho hoà bình cho mọi ngưòi. Không còn cách nào khác.“  Ông cũng bình luận thêm rằng: „ Ác tâm cũng phải kể luôn vào trong từ tâm của chúng ta, bởi ví chính nó là điều mà ngưòi ta rất cẩn thương yêu nhiều nhất.  Nếu tôi đối xử tốt đẹp với một người nào đó, thì ngườì đó sẽ học điều này và đến phiên họ sẽ đối xử tốt đẹp với người khác. Nếu tôi không tốt với họ, họ sẽ ấp ủ lòng thù oán và đến phiên họ lại tiếp tục gây cho ngưòi khác. Nếu thế giơi này không tốt đẹp thì tôi sẽ không nổ lực nửa để cải thiện chính mình.“ 

Ông trích dẫn tư tưởng bất bạo động của Gandhi khi nhắm vào cứu cánh của mọi sự đối nghịch mà không nhắm vào cá nhân người đối nghịch. Đó là điều quan trọng. Chúng ta tôn trọng sự đối kháng. Điều này bao hàm rằng chúng ta tin vào tính nhân bản của họ và hiểu rằng ác ý là do vô minh gây ra. Bằng cách kêu gọi làm những điều tốt đẹp cho nhau, cả hai chúng ta sẽ đạt đến sự an hoà. Gandhi gọi đó là một thắng lợi cho cả hai. 

Ông thấy kiến tạo hoà bình là môt diễn trình chậm chạp, nhưng đều đặn vả từng bước một. Trong ý nghiã này thì hoà giải không có nghiã là từ bỏ các quyền lợi và điều kiện, nhưng chính ra chúng ta sử dụng tình yêu thương trong tất cả mọi cuộc thương thảo, ngoài ra không còn cách nào khác vượt qua vòng thù oán.  Khi nói về lòng từ bi thiếu thực tế khi không dùng trí tuệ, ông kể chuyện một vị vua đã từ bỏ việc chém giết. Bồ tát đã khuyên vua rằng dù khi bị trẻ con tấn công nhưng vua vẫn còn có thể bày tỏ sự bất bình khi cần thiết và trong tinh thần bất bạo động. 

Trong thời kỳ dẫn tới những cuộc tuyển cử vào năm 1993 Ghosànanda, lúc này đã 69 tuổi, đã hướng dẫn một cuộc diển hành cho hoà bình 19 ngày gần vùng biên giới Thái xuyên qua lãnh thổ Khmer Đỏ, tới thủ đô Phnom Penh, nơi đó có 8.000 cùng tham dự. Thường thì những cuộc diển hành này có nguy hiểm vì do bắn sẻ và được Liên Hiệp Quốc quan tâm theo dỏi vấn đề an ninh. Dù vậy, thì cuối cùng lòng kiên quyết và niềm tin đã vượt thắng và Khmer Đỏ cho phép họ đi qua không hề bị nguy hại và tạo đưọc một khung cảnh an lành khi họ diễn hành. Ý tưỏng của Ghosànanda là hoà bình chỉ có được ở nơi nào mà người dân có thể đi trên đường phố mà không sợ hải và chính với sự bình an trong tâm hồn minh. Ghosànanda đã tổ chức nhiều cuộc diễn hành cho hoà bình tại Kampuchia. Vào tháng tư và năm 1994 ông đi bộ 175 cây số với 800 tăng ni từ Battanbang đến Angkor Wat xuyên qua vùng tây bắc nơi chiến tranh còn tác động. Trên đường đi dù có binh sĩ của chính quyền tháp tùng cuộc diễn hành và hướng dẫn họ qua các bải mìn, đã có một vị tăng và một ni cô bi chết bị bắn từ buị rậm.  Ông đã đóng vai trò lãnh đạo trong chiến dịch tháo gở các bải mìn tại Kampuchia và các nơi khác và hướng dẫn một phái đoàn liên tôn hổ trợ cho hòa đàm tại Sri Lanka. Ông trích dẫn phương cách của Phật giáo để giải quyết xung đột Sàkya/Sri Lanka và kêu goị Phật tử có can dự vào xung đột giúp giải quyết vấn đề.  

Ghosànanda dạy về tầm quan trọng của Thuyết Trung Đạo và hoà bình, tránh mọi đấu tranh với ngưòi đối nghịch bằng việc khen chê, phân biệt cái của anh và của tôi.  Tư tưởng của ông về đường lối đưa tới hoà bình như sau: 

“Bất bạo động là nguồn gốc của mọi hoạt động. Chúng ta có thể làm được gì đóng góp cho hoà bình trong một thế giới bất an là điều quá ít. Và chính vì thế, khi chúng ta bắt đầu xây dựng hoà bình, chúng ta bắt đầu bằng sự quân bình do thiền định và cầu nguyện. 

Kiến tạo hoà bình đòi hỏi lòng từ tâm. Nó đòi hỏi sự kheó léo khi lắng nghe. Khi lắng nghe, chúng ta phải tự quên mình ngay cả ngôn ngữ của chúng ta. Chúng ta nghe cho đến lúc nào mà chúng ta có thể nghe được bản tính hiếu hoà của chính chúng ta lên tiếng. Khi chúng ta nghe chính tiếng lòng mình thì chúng ta mới học cách nghe tiếng nói của tha nhân. Và từ đó tư tưởng mới sẽ nảy sinh. Phải có sự cởi mở và hài hoà. Khi chúng ta tin lẩn nhau, chúng ta khám phá khả năng mới để giải quyết các tranh chấp. Khi chúng ta nghe thật tường tận, chúng ta sẽ nghe hoà bình đang ló dạng.

Kiến tạo hoà bình đòi hỏi sư tĩnh thức, ý thức sâu xa về một thế giới nội tâm và ngoại cảnh. Không có hoà bình vói lòng tỵ hiềm, không chính trực hoặc phê phán vô nghiã. Chúng ta phải xác quyết là kiến tạo hoà bình quan trọng hơn là gây chiến. 

Kiến tạo hoà bình đòi hỏi tinh thần vị tha. Chính tinh thần vị tha tạo nên cội rể. Kiến tạo hoà bình, kỷ năng trong làm việc tập thể và hợp tác là điều chủ yếu. Chúng ta có thể làm gì để phục vụ cho hoà bình và cảm thấy chính chúng ta là người tiếp thu được phương cách này thì việc này còn quá it người. Người thật sự đóng góp cho hoà bình sẽ phấn đấu cho hòa bình không vì vinh quang hay ngay cả vinh dự. Nổ lực cho danh vọng hay vinh dự chì làm hại cho những phấn đấu này.

Kiến tạo hoà bình đòi hỏi khôn ngoan. Hoà bình là một con đường được chọn lưạ với ý thức. Nó không phải là sự lang thang không mục đích nhưng là một cuộc du hành từng bước một. 

Kiến tạo hoà bình bằng đường lối trung dung trong thư thái, không đối nghịch triệt để và không bị ràng buộc. Kiến tạo hoà bình có nghĩa là một sự quân bình tuyệt hảo giửa trí tuệ và từ bi, một sự gặp gở tuyệt vời của nhu cầu nhân đạo và thực tại chính trị. Nó có nghiã là từ bi nhưng không nhân nhượng và hoà bình không xoa diụ. Từ bi chính là phương cách duy nhất đề đạt tói hoà bình.“  

Kết luận 

Như vậy, tiểu luận này về Phật giáo đã cho thấy truyền thống là một nguồn gốc quan trọng để tìm một giải pháp cho xung đột, nhưng những cội nguồn và ý tưởng liên hệ đôi khi cũng cần phài biết rỏ hơn và áp dụng toàn diện. Phật tử Nhật làm quá ít để ngăn chận chủ nghĩa dân tộc Nhật hồi đầu thế kỳ XX, dù vậy bây gìờ họ rất tích cực trong việc cổ vũ cho hoà bình. Thời kỳ hậu thuộc điạ đã để lại một di sản bất ổn và việc tái chỉnh đốn xã hội tại các quốc gia Phật giáo. Điều rỏ nét là tại một vài nơi, sự hồi sinh tôn giáo đã gây nguy hiểm khi phân hoá những nhóm sắc tộc không phải là Phật tử (Sri Lanka), chủ trương bình đẳng đồng hoá đưa tới thù hận (Kampuchia) và phong trào dân tộc chống thực dân đưa tới tinh thần bài ngoại (Miến Điện). Một điểm khôi hài nhất ở đây chính là những thí dụ tốt nhất nhằm minh chứng cho lời dạy của Đức Phật mà vô minh và giáo điều là cội rể của đau khổ của con người. 

Chúng ta thấy có một khuynh hướng bất hạnh cho Phật tử vì đôi khi họ lại rơi vào việc phải đối xử ác độc với kẻ đối kháng mình trong chiến tranh như là hiện thân của ma vương, hoặc thành những kẻ làm điều ác thiếu nhân tính. Điều này có thể thấy được qua câu chuyện của vua Duttagamaji, trong chuyện Kittvuddho và trong nhiều cuộc xung đột khác tại Trung Quốc.  Trong thiền cũng có sự nguy hiểm khi một vài giáo pháp cho phép giải thích về sự phi nhân cách hoá cho kẻ thù. Tại Miến Điện, Trung Quốc và Nhật chúng ta thấy Phật giáo là một thành tố trong những cuộc nổi dậy của nông dân chống lại bạo quyền đàn áp, đôi khi lại bắt nguồn từ khái niệm sai lầm khá phổ biến từ minh vương Cakkavatti về sự tái sinh của Đức Phật. Dù vậy, nói chung, những thất bại của Phật tử trong việc sống cho phù hợp với lý tưởng bất bạo động của họ có thể bị đặt vào trong những lo sợ nan giải của con người và những ràng buộc ngày càng nhiều hơn trong những thời kỳ bất ổn về chính trị.

Ở thế kỷ XX chúng ta thấy có đấu tranh của Phật tử chống lại bạo lực của cộng sản và Mác Xít. Trong khi Kittivuddho cổ vũ chống lại họ bằng bạo lực bởi vì sự đe doạ của họ đối với văn hoá tôn giáo, thì những nhà lãnh đạo khác lại dùng bất bạo động để chống họ, như tại Tây Tạng, Kampuchia và Miến Điện, hoặc đứng ra hoà giải giửa các lực lượng này và người đối kháng Hoa kỳ như tại Việt Nam.

Chúng ta đã nghe tiếng nói của những người này thí dụ như A. T Ariyaratne, Aung San Suu Kyi, Sulak Sivaraksa, Mahà Ghosànanda, Nichdatsu Fujii, Daikasu Ikeda, và Nikyo Niwano. Họ là những người thầm lặng nhưng kiên quyết nhắc nhở cho Phật tử về tinh thần bất đạo động và khoan dung của Đức Phật. Thích Nhất Hạnh và Dailai Lama là hiện thân mãnh liệt của tinh thần này vừa trong việc tìm kiếm sự hổ trợ của dân tộc mình, và trong trước tác và trong những hoạt động vượt ra khỏi phạm vi đất nước mình.

Trong số những người hoạt động cho hoà bình của Phật giáo hiện nay thì Dalai Lama và Aung San Suu Kyi đã nhận giải Nobel về hoà bình trong khi Ariyaratne, Ghosànanda và Nhất Hạnh đề được đề cừ để nhận giải. Trong số những người này và những người khác đã được đề cập ở trên chúng ta thấy có một mối dây liên hệ. Một số người ngưởng mộ Gandhi và phương thức của ông, thí dụ như Fujii, Ariyanate, Ghosànanda và Nhất Hạnh. Dù Gandhi là người Ấn chiụ ảnh hưởng bởi hai tôn giáo Jainism của Ấn và Thiên Chuá giaó, tư tuởng và hành động cuả ông hoàn toàn phù hợp với giá trị Phật giáo. Ông đã gây ấn tượng về hành động bất bạo động, nhưng có hiệu năng. Chính vì thế mà tất cả những người hoạt động đấu tranh cho hoà bình nói trên tin tưởng mãnh liệt vào phương thức bất bạo động và không thù oán với người đàn áp. Sự liên hệ khác bắt nguồn từ tinh thần từ bi cho cả hai phe trong tranh chấp, điển hình là Nhất Hạnh, Dalai Lama, Ghosànanda, Ariyaratna, Suu Kyi và Sivaraksa. Sự nối kết này là việc nhấn mạnh đến việc hoà bình bắt nguồn từ trong từng cá nhân rồi lan rộng ra bên ngoài. Đó là trường hợp của Ghosànanda, Nhất Hạnh và Dalai Lama. Sự liên kết này nhấn mạnh đến tinh thần tương thuộc, do những người theo tinh thần Đại thừa như Soko Gakkai, Nhất Hạnh và Dalai Lama. Chúng ta cũng thấy họ tập trung vào việc từ bỏ các bám viú giáo điều, cởi mở trước những viễn kiến của tha nhân, như trường hợp của Ariyaratne, Ghosànanda, Nhất Hạnh, Dailai Lama, Sivaraska và ngay cả phong trào không dựa trên tôn giáo như Soka Gakkai. 

Đổ Kim Thêm dịch

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here