Trang chủ Văn hóa - Lịch sử Ý nghĩa biểu trưng tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn...

Ý nghĩa biểu trưng tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay

212
0

Nhưng bên cạnh đó, vẫn có không ít người chỉ  nhìn bức tượng bằng con mắt của mỹ thuật hiện  thực, bỏ qua những xúc cảm tôn giáo và các giá trị  tâm linh, tinh thần khác. Đáng buồn hơn, người ta đã cố tình gắn vào các biểu tượng tâm linh Phật giáo những quan điểm xã hội học dung tục. Còn  nhớ, cách đây không lâu, khi di tích hoàng thành Thăng Long được khai quật, các di sản Phật giáo lúc được đưa ra giới thiệu với công chúng cũng bị  nhìn nhận một cách đầy biến dạng; và gần đây tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cũng  được nhìn tương tự như vậy trong bài viết “Ảo  ảnh” của tác giả Phan Cẩm Thượng, đăng trên báo  Thể Thao & Văn Hoá, số 104 (30-9-2005).

Trước tiên, chúng tôi điểm qua một vài nét sơ  lược về mục đích và ý nghĩa của việc phát triển nghệ thuật điêu khắc Phật giáo, để nói rõ thêm về  xuất xứ của tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt  nghìn tay. Các kinh điển Đại thừa như Pháp Hoa,  Địa Tạng… đều có đề cập đến công đức của việc  chiêm ngưỡng, tô vẽ, đắp nặn hình tượng của các  vị Phật, Bồ tát. Điều này cho thấy, nghệ thuật điêu khắc Phật giáo có thể đã ra đời và phát triển trước  hoặc cùng thời với sự phát triển của Phật giáo Đại  thừa. Vì vậy, ngay từ rất sớm đã xuất hiện những  kinh nói về công đức rộng lớn của việc tạo tượng  như: Đại thừa tạo tượng công đức kinh, Phật thuyết  tạo hình tượng kinh, Phật thuyết tạo vị hình tượng  phúc báo kinh… Khi tạo tượng Phật, sự thành công của nghệ nhân tuỳ thuộc vào độ kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng, nghệ thuật và tính tôn giáo. Từ đó, gián tiếp thông qua các hình tượng Phật, Bồ  tát… ứng dụng vào đời sống tu tập thực tiễn, xiển  dương giáo lý, cũng như đáp ứng nhu cầu văn hoá tâm linh của những người có tín ngưỡng.

Lâu nay, nói đến hệ thống hình tượng trong  nghệ thuật điêu khắc Phật giáo, các nhà nghiên  cứu đã thống nhất chia ra làm các bộ: Chư Phật bộ,  Bồ tát bộ, Chư Thiên bộ, Minh vương bộ, La hán bộ,  Hộ pháp bộ, Thần bộ, Quỷ bộ… Trong Bồ tát bộ có 4 hình tượng tiêu biểu nhất, gọi là “Tứ Bồ tát” hay “Tứ Đại sĩ”: Văn Thù Bồ tát (biểu tượng cho Đại trí),  Phổ Hiền Bồ tát (biểu tượng cho Đại hạnh), Quan  Âm Bồ tát (biểu tượng cho Đại bi), Địa Tạng Bồ tát  (biểu tượng cho Đại nguyện). Đặc biệt, trong Bồ  tát bộ, Quan Âm được xếp thành một bộ riêng với  vô số các hình tượng khác nhau.

Sự sùng bái Bồ tát Quan Âm có liên quan mật  thiết đến sự phát triển của Tịnh Độ tông và Mật  tông, cụ thể là tư tưởng “Tịnh Mật hợp nhất”.  Chính tại thời điểm giao thoa của hai tông này mà  sức sáng tạo các hình tượng Bồ tát Quan Âm ngày  càng trở nên phong phú, đa dạng. Biểu tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ tát thường được dân gian hiểu là: có nghìn mắt, nghìn tay để  nhìn thấu nỗi khổ của chúng sinh và ra tay cứu  giúp họ. Điều đó cũng được lý giải trên cơ sở sáu căn đều diệu dụng (lục căn diệu dụng), tức là bất  cứ một căn nào trong sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi,  thân, ý) cũng có thể thay thế tác dụng của các căn còn lại, thế nên không chỉ dùng mắt quán âm  thanh mà còn có thể quán sắc, quán hương, quán vị, quán xúc, quán pháp.

Mật tông tập trung chủ yếu vào biểu tượng Đại Nhật Như Lai, nên các thần chú, hình tượng, pháp  khí, nghi lễ đều có những quy định nghiêm ngặt  và được thể hiện dưới hình thức vô cùng phức tạp,  khác lạ… Vì vậy, các hình tượng Phật, Bồ tát trong Mật tông thường được biểu trưng bằng những uy  lực vô biên. Nói đến hình tượng Bồ tát trong Mật  tông là nói đến sáu vị Quan Âm tiêu biểu: Thiên  Thủ Thiên Nhãn Quan Âm, Thánh Quan Âm, Mã  Đầu Quan Âm, Thập Nhất Diện Quan Âm, Chuẩn  Đề Quan Âm và Như Ý Luân Quan Âm.

Trong kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni  của Mật tông có nói: “Trong vô lượng ức kiếp thời quá khứ, Bồ tát Quan Thế Âm nghe Đức Thiên Quang  Vương Tĩnh Chú Như Lai nói thần chú Đại Bi Tâm Đà  La Ni bèn phát nguyện làm lợi ích, an lạc tất cả chúng  sinh. Liền khi ấy, trên người mọc ra một nghìn con mắt  và một nghìn bàn tay”. Con số 1.000 biểu trưng cho  sự viên mãn, nên tượng được tạo với đủ 1.000 mắt, 1.000 tay (gồm 40 tay lớn và 960 tay nhỏ, trong mỗi  tay đều có mắt), có nơi tạo tượng với 40 tay lớn, hoặc  42 tay lớn (có 2 tay chắp, 2 tay đặt trong tư thế thiền  định). Nghệ nhân ở các nước Phật giáo theo truyền thống Đại thừa thường tạo tượng theo mẫu thức 40  tay lớn, bởi con số 40 ứng với 25 hữu (25 quốc độ của  chúng sinh trong tam giới – 25×40=1.000) (*)

Tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm ở Việt Nam cũng giống như một số tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm- Trung Quốc: có 42 tay lớn và rất nhiều tay nhỏ, mỗi tay đều có mắt. Nhìn chung,  trong 42 tay lớn, có 2 tay chắp, 2 tay đặt trong tư  thế thiền định, các tay còn lại được chia đều ra hai  bên. Có nơi tạo tượng với 40 tay lớn, hầu hết các  tay đều cầm pháp khí, trông rất uy lực. Tuy nhiên, sự độc đáo trong điêu khắc của tượng Quan Âm  nghìn mắt nghìn tay chùa Bút Tháp là sự kết hợp  của hai biểu tượng Quan Âm (Thiên Thủ Thiên  Nhãn Quan Âm và Thập Nhất Diện Quan Âm).  Riêng Thập Nhất Diện Quan Âm, tuỳ theo lối điêu  khắc của mỗi nước mà có những biểu hiện khác  nhau, bởi 11 khuôn mặt (kể cả ba khuôn mặt  chính) và 1 tượng Phật A Di Đà ngồi trên đỉnh, được xếp theo 5 tầng. Ba khuôn mặt chính phải  thể hiện được đầy đủ nét từ bi của ngài Quan Thế  Âm, còn 3 tầng trên tuỳ theo từng nơi mà các  khuôn mặt ấy có những biểu hiện khác nhau:  trang nghiêm, dũng mãnh, uy hùng, đượm buồn…  Nhưng kết hợp lại, các khuôn mặt, tay, mắt, pháp  khí cũng như thế ngồi (hàng ma) tạo thành một  tổng thể pháp lực, với những công năng diệu  dụng phá tan ba chướng (nghiệp chướng, báo  chướng, phiền não chướng). Thế nên, trong 6 vị  Quan Âm của Mật tông thì Thiên Thủ Thiên Nhãn  Quan Âm biểu trưng cho pháp lực phá tan ba  chướng ở Địa ngục đạo; Thánh Quan Âm phá ba  chướng ở Ngạ quỷ đạo; Mã Đầu Quan Âm phá ba  chướng ở Súc sinh đạo; Thập Nhất Diện Quan Âm  phá ba chướng ở A tu la đạo; Chuẩn Chi Quan Âm phá ba chướng ở Nhân đạo; Như Ý Luân Quan Âm  phá ba chướng ở Thiên đạo. Tương tự như vậy,  trong Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Tông cũng  nói đến các danh xưng Quan Âm với những công  năng tiêu trừ ba chướng như: Đại Bi Quan Âm phá  ba chướng ở Địa ngục đạo; Đại Từ Quan Âm phá ba  chướng ở Ngạ quỷ đạo; Sư Tử Vô Uý Quan Âm phá  ba chướng ở Súc sinh đạo; Đại Quang Phổ Chiếu  Quan Âm phá ba chướng ở A tu la đạo; Thiên Nhân  Trượng Phu Quan Âm phá ba chướng ở Nhân đạo;  Đại Phạm Thâm Viễn Quan Âm phá ba chướng ở  Thiên đạo…

Hình tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, qua phân tích dưới khía cạnh “lục căn diệu dụng”, còn  có ý nghĩa là tri-hành hợp nhất (nghĩa là có bao  nhiêu bàn tay là có bấy nhiêu con mắt; có biết là có   làm, có làm là có biết). Nếu có 100 tay nhưng tới 1.000 mắt thì chỉ là biểu hiện cho việc biết nhiều  làm ít, không lợi ích gì cho chúng sinh. Ngược lại, nếu có 1.000 tay nhưng chỉ 100 mắt thì làm nhiều, làm một cách nhiệt tình, nhưng do không biết đầy  đủ nên đem lại tổn hại cho chúng sinh. Chính vì  thế, hình tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt  nghìn tay của người Việt không phải là ảo ảnh, ảo  tượng phi lý của nhân dân (như có người đã lầm  tưởng), mà đó chính là hiện thực sinh động nhất  của con đường Bồ tát đạo. Nếu đi đúng con đường ấy thì khả năng làm lợi ích an lạc cho chúng sinh là rất lớn.

Như vậy, sự hợp nhất giữa hình tượng Thiên  Thủ Thiên Nhãn Quan Âm và Thập Nhất Diện  Quan Âm (trong công năng tiêu trừ ba chướng) đã  thể hiện đầy đủ sức sáng tạo văn hoá tinh tế của  dân tộc Việt. Địa ngục là cảnh khổ nhất nên rất cần  đến lòng đại từ của Bồ tát Thiên Thủ Thiên Nhãn  Quan Âm. Cảnh giới của A tu la là cảnh chiến tranh  đầy thù hằn và nghi kỵ nên rất cần đến lòng đại bi  của Bồ tát Thập Nhất Diện Quan Âm. Hai cảnh khổ đau được miêu tả này có nhiều tương đồng với  tình trạng khủng hoảng các giá trị nhân đạo, nhân  văn thời Nam-Bắc phân tranh (thế kỷ XVI-XVII), nên  tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ra đời trong hoàn cảnh đó không chỉ đánh dấu bước ngoặt đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc mà còn  là khát vọng hoà bình, hạnh phúc của nhân dân.

Hiện tại, chúng ta đang phải sống trong tình  trạng có quá nhiều những lý thuyết hay ho nhưng  những bài học cơ bản làm người (không giết  người, không trộm cướp, không tà dâm, không nói  dối, không sử dụng các chất gây nghiện, gây say)  vẫn bị bỏ quên; có quá nhiều lời hứa lớn nhưng  thực hiện nhỏ; có quá nhiều quyết tâm nhưng không có uy lực, can đảm…, nên các tệ nạn xã hội,  nạn tham nhũng, lãng phí… mới khiến cho chúng  ta tưởng chừng như đang bị quay cuồng trong ảo  ảnh, trong khi xã hội vẫn luôn tồn tại những giải  pháp thiết thực. Một bài học đầy tình người nhưng  rất trí tuệ được bàn tay của các nghệ nhân dân  gian xưa gửi gắm qua hình tượng Phật Bà Quan  Âm nghìn mắt nghìn tay, trải qua nhiều thế kỷ  thăng trầm của dân tộc vẫn còn nguyên giá trị, và  giá trị đó chỉ được mặc nhiên thừa nhận khi người ta ý thức rõ rằng: “biết và làm” (tri và hành) là thiết  thực hơn “nói và làm”, và lợi ích hơn “nói mà không  làm”…

Chú Thích

 (*) 25 hữu trong Tam giới gồm:  – 14 hữu trong Dục giới: 4 Ác đạo (A tu la, Địa ngục, Ngạ  quỷ, Súc sinh); 4 Đại bộ châu (Đông Thắng Thần Châu, Nam  Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hoá Châu, Bắc Câu Lô Châu); 6 Trời  cõi dục (Tứ Thiên Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên,  Đâu Suất Thiên, Lạc Hoá Thiên, Tha Hoá Tự Tại Thiên).  – 7 hữu trong Sắc giới: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ  Thiền, Đại Phạm Thiên, Tịnh Cư Thiên và Vô Tưởng Thiên.  – 4 hữu trong Vô sắc giới: Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên  Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

THÁI NAM THẮNG | Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo 9

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here