Tiềm năng lớn
Lý do thứ nhất là du lịch di sản đang chiếm thế thượng phong. Hầu như mọi du khách đến Huế lần thứ nhất, lần thứ hai, thậm chí lần ba, lần bốn đều chọn điểm tham quan là Hoàng thành, lăng tẩm, xen ghép trong hành trình có ghé thăm một, hai ngôi chùa cổ, hoặc điện Huệ Nam (điện Hòn Chén). Điều này cũng dễ hiểu, vì di sản văn hóa là lợi thế cạnh tranh của du lịch Huế. Trong khi đó, quỹ thời gian dừng lại Huế của du khách theo các tour xuyên Việt, các tour liên kết nội vùng chỉ từ một đến hai ngày.
Lý do thứ hai là Huế chưa xây dựng được các sản phẩm du lịch tâm linh ngang tầm, có sức hấp dẫn, thu hút du khách. Kể cả trong truyền thông, quảng bá loại hình du lịch tâm linh cũng chưa được quan tâm.
Để khai thác tốt loại hình du lịch tâm linh, chúng ta cần phải làm gì là câu hỏi đã được đặt ra từ lâu, và ở nhiều nơi, nhiều diễn đàn. Theo tôi có mấy việc Huế phải tập trung nguồn lực và trí tuệ để làm thật tốt.
Khai thác loại hình du lịch lễ hội
Các lễ hội truyền thống đều có những mục đích cao cả là cầu cho quốc thái dân an; mùa màng tươi tốt, bội thu; nhà nhà no đủ, hạnh phúc. v.v… Lễ hội được diễn ra trong một không gian linh thiêng và trong một thời điểm nhất định. Trong các lễ hội truyền thống của người Việt đều có các hoạt động văn hoá tâm linh. Khai thác tốt các giá trị văn hoá tâm linh, lễ hội sẽ mỹ mãn hơn, thu hút du khách đến với lễ hội nhiều hơn.
Huế sẽ trở thành một thành phố lễ hội, là nơi hội ngộ của nhiều nền văn hoá mà Festival là một nhịp cầu. Trong mỗi kỳ Festival, Ban tổ chức đã dành một khoản kinh phí khá lớn để tổ chức một số lễ hội. Nhưng các lễ hội này đều được sân khấu hóa và diễn ra không đúng thời điểm nên không có yếu tố thiêng, nhiều khi bị phản cảm nên đầu tư lớn mà hiệu quả thấp.
Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã – Điểm du lịch tâm linh được nhiều người biết đến. Ảnh: Hiền An
|
Vì thế hãy trả lễ hội về đúng ngày của lễ hội. Chính quyền cần tạo ra cơ chế tích cực để cho các lễ hội dân gian, lễ hội tôn giáo lành mạnh được duy trì thường xuyên, sống động, góp phần tác động tích cực đến đời sống văn hoá, đời sống tâm linh của người dân cũng như du khách. Không phải liên hoan nào cũng do chính quyền, do ngành văn hoá – du lịch tổ chức. Ví dụ như Hội vật làng Sình, Lễ hội Cầu Ngư ở Thuận An, dù chỉ quy mô cấp xã mà không khí lễ hội ở đó đã sôi động ít nhất là hai ngày, khách thập phương đổ về khá đông. Thực tế cho thấy, lễ hội nào có yếu tố thiêng thì không cần quảng bá cũng nườm nượp du khách đổ về như lễ hội chùa Hương, lễ hội Yên Tử, lễ hội Đền Hùng, lễ hội Làng Sen…
Đại lễ Phật đản do Giáo hội Phật giáo tổ chức nhưng các hoạt động lễ và hội được diễn ra trang trọng và sâu lắng trong suốt một tuần lễ với các điểm nhấn là bảy đoá sen hồng lung linh trên sông Hương về đêm, lễ hội hoa đăng, lễ diễu hành thuyền hoa, hoặc xe hoa. Có thể nói, không lễ hội nào ở Huế có sự cộng hưởng mạnh mẽ từ lòng dân, từ sức dân như lễ hội Phật đản. Thế mạnh này cần được phát huy. Đã có nhiều ý kiến đề xuất lễ hội Phật đản nên trở thành hoạt động khởi đầu của Festival Huế định kỳ, giống như một chương trình Off, làm cho Festival thêm hàm lượng văn hoá mà không phải tốn kém kinh phí từ ngân sách nhà nước.
Xây dựng các tour du lịch có tính hồi tưởng sâu sắc
Khởi đầu cho một năm khai thác du lịch tâm linh ở Huế là lễ hội đền Huyền Trân. Theo chúng tôi, lễ hội Huyền Trân cần được xem là hoạt động mở đầu cho một chương trình lễ hội du xuân hoành tráng, với một chuỗi lễ hội đã có thương hiệu như Hội vật làng Sình, Lễ hội Cầu ngư ở Thuận An, lễ hội Tết Nguyên tiêu (gắn với ngày thơ Việt Nam)… Lễ hội mùa xuân hằng năm của Huế nếu được kết thúc bằng lễ hội Nam Giao, hay lễ tế Xã Tắc thì vô cùng hợp lý và ý nghĩa.
Những lễ hội này đã đi vào lòng người và có ý nghĩa về mặt tâm linh. Ví dụ như Lễ hội đền Huyền Trân có tính hồi tưởng sâu sắc, giúp dân ta hiểu sử ta, giúp mọi người hiểu sâu sắc hơn về tiến trình mở mang bờ cõi về phương Nam của dân tộc Việt, cảm nhận sâu sắc hơn về sức mạnh của quá khứ.
Sức mạnh của hồi tưởng sẽ sinh ra du lịch hồi tưởng, du lịch tâm linh; mở ra những triển vọng khai thác du lịch mạnh mẽ hơn nữa ở các di tích tôn giáo, di tích lịch sử, chứng tích chiến tranh như: Tử ngục Chín Hầm, đàn Âm hồn, chùa Ba Đồn… Thực tế cho thấy, những nơi diễn ra chiến tranh ác liệt nhất là nơi con người có khát vọng hoà bình mạnh mẽ nhất. Hành hương về các chiến trường xưa, về các nghĩa trang liệt sĩ chính là loại hình du lịch hồi tưởng, du lịch tâm linh với một khát vọng hoà bình, hướng thiện.
Thăm kỳ quan Angkor, điểm đến cuối cùng trong ngày của các tour là lên đỉnh Phnom Barkheng. Du khách háo hức leo núi Barkheng để được ngắm hoàng hôn trên khu đền thiêng. Người Campuchia cho rằng, ai nhìn thấy mặt trời lặn trong ngày thì sẽ gặp điều may mắn. Thực ra đây là thời khắc đẹp nhất để chiêm ngưỡng ánh mặt trời chuyển đổi sắc màu và những ngọn tháp hiện lên rực rỡ trong ánh chiều tà. Tương tự, điểm đến cuối cùng trong ngày của du khách sau một ngày tham quan Huế là đồi Vọng Cảnh, đồi Hà Khê. Ở đó họ được ngắm sông Hương chiều tà lúc vàng lúc tím lấp lánh, huyền ảo như bảy sắc cầu vồng ở hai khúc quanh đẹp nhất của dòng sông nghệ thuật và dòng sông tâm linh của Huế. Từ đồi Vọng Cảnh nhìn qua bên kia sông là điện Hòn Chén linh thiêng, gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu. Lên đồi Hà Khê du khách được hồi tưởng về truyền thuyết lựa chọn vùng đất này để xây dựng kinh đô của các chúa Nguyễn và vua Nguyễn… Thế núi, dáng sông, kiến trúc Huế gắn với truyền thuyết, huyền thoại làm cho không gian Huế, cuộc sống Huế thấm đẫm văn hoá tâm linh.
Cứ như thế, văn hoá tâm linh sẽ thổi hồn cho di sản, làm thăng hoa di sản văn hóa Huế. Nếu biết khai thác tốt các giá trị văn hoá tâm linh, du lịch Huế sẽ có thêm thương hiệu mới, tạo ra sự khác biệt, làm tăng thêm tính hấp dẫn cho Huế. Nhưng bảo tồn phải gắn với phát triển hợp lý. Sự khác biệt của Huế là không tựa vào một đô thị hiện đại với các giá trị vật chất để phát triển nhanh, mà phải dựa vào giá trị văn hoá phi vật thể, trong đó có văn hóa tâm linh, để phát triển bền vững. Phát triển du lịch tâm linh gắn với du lịch di sản cũng là một hướng đi thích hợp, đáp ứng tâm lý, nhu cầu của số đông du khách.