Trang chủ Văn hóa - Lịch sử Ngọn lửa Tiêu Diêu

Ngọn lửa Tiêu Diêu

137
0

(LQ) Khi Cuộc vận động cho 5 nguyện vọng của Phật giáo diễn ra (5-1963), Ty-kheo rời am tranh chùa Châu Lâm để về chùa Từ Đàm – trung tâm lãnh đạo cuộc vận động – để tiện việc dấn thân vào cuộc tranh đấu. Từ đó, không một cuộc biểu tình, xuống đường, tuyệt thực hay cầu an cầu siêu nào cho Cuộc vận động và cho những người đã hy sinh vì đạo pháp mà thiếu mặt Tỳ-kheo Tiêu Diêu.

Hình ảnh vị sư già nhẫn nại bền bỉ trong mọi hoạt động tranh đấu như thế là một tấm gương cho đại chúng Phật tử noi theo. Những hoạt động tranh đấu tích cực của Ty-kheo không những để góp phần cho cuộc đấu tranh của Phật giáo sớm thành mà còn để xứng đáng là một đệ tử của bổn sư Thích Tịnh Khiết – vị Hòa thượng đang lãnh trách nhiệm Lãnh đạo tối cao của Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo.

Vào trung tuần tháng 6-1963, thông tin về Tỳ-kheo Thích Quảng Đức tự thiêu ở Sài Gỏn qua các đài BBC, VOA, Úc đại lợi.v.v. làm chấn động dư luận thế giới, đặc biệt là dư luận Mỹ, Tỳ-kheo Tiêu Diêu hết sức cảm mộ. Trong tâm trí Tỳ-kheo nẩy ra ý định nối tiếp ngọn lửa từ bi Quảng Đức bằng cách mổ bụng để “cúng dường mười phương chư Phật, đồng thời dùng nó như một phương sách để thúc đẩy Tổng thống Ngô Đình Diệm kíp thời giải quyết ổn thỏa 5 nguyện vọng của Phật giáo”. Tỳ-kheo bí mật mài một con dao nhíp thật sắt chờ cơ hội thực hiện ý định mổ bụng. Nhưng bất ngờ Tỳ-kheo Thích Mật Hiển[1] phát hiện được, con dao sắt bị thu giữ ngay và Đại đức bị quỡ trách rất nặng:

– “Con nhà Phật tại sao lại muốn tự sát sanh? Ai cho phép quý thầy tự ý hành động như vậy?”

Tỳ-kheo đãnh lễ xin nhận lời quỡ trách.

Không được mổ bụng như người Nhật, Tỳ-kheo Tiêu Diêu viết thư gởi Hòa thượng Hội chủ xin tự thiêu. Trong lúc chờ đợi sự chấp thuận của Giáo hội, hằng ngày Tỳ-kheo ăn rất ít, thường một mình ngồi bên ngọn đèn dầu, với nguyện lực kiên cường, Tỳ-kheo lặng lẽ đốt từng ngón tay – xem như đốt một phần thân thể để cầu nguyện. Quyết tâm tranh đấu của Tỳ-kheo có một tác động rất mạnh đối với giới Phật tử trẻ, đặc biệt là các đoàn viên Sinh viên Phật tử Huế. Nhiều người muốn tự nguyện chăm sóc Tỳ-kheo và sẵn sàng hành động theo tấm gương của Tỳ-kheo.

Đến ngày 13-8-1963, ngọn lửa Sa-di Thích Thanh Tuệ bất ngờ bùng sáng ở chùa Phước Duyên làm chấn động cả Thành phố Huế. Anh em nhà họ Ngô rải các lực lượng vũ trang và giăng bùng nhùng kẽm gai trên nhiều đoạn đường từ Huế dẫn lên chùa Thiên Mụ, khu vực Võ, Văn Thánh hòng ngăn chặn Phật tử Huế kéo lên chùa Phước Duyên bái lạy Sa-di Thanh Tuệ. Cảnh tượng Phật tử ngồi trì giữa đường bị bắt bớ, đánh đập diễn ra nhiều nơi. Tiếng thét, tiếng kêu khóc hòa lẫn với tiếng cầu kinh chống lại hành động cướp xác Thanh Tuệ của lực lượng an ninh nhà họ Ngô làm cho không khí thành phố Huế đang bị giới nghiêm trở nên căng thẳng khác thường.

Cái không khí đó đã tác động đến tinh thần Tỳ-kheo Tiêu Diêu. Dù chưa được Giáo hội cho phép, Tỳ-kheo vẫn bí mật nhờ các Sinh viên Phật tử và Gia đình Phật tử thân tín chuẩn bị nhiên liệu để cho Tỳ-kheo tự thiêu. Tuổi trẻ Phật tử chờ sự kiện ấy từ lâu nên khi được Tỳ-kheo Tiêu Diêu nhờ, Sinh viên Phật tử và Gia đình Phật tử nhận lời ngay. Từ chiều 15-8-1963, một khối củi khô, một can mười lít xăng và một bộ quần áo kết bằng bông gòn dày đã tập kết giấu sau nhà bếp chùa Từ Đam. Đến tối ngày 15-8, trong khuôn viên chùa Từ Đàm có khoảng 5 ngàn Phật tử. Thế rồi, mười giờ đêm, mười hai giờ khuya, một hai giờ sáng vẫn yên tĩnh. Đến gần bốn giờ sáng ngày 16-8, khi mọi người còn đang thiu thiu ngủ, Tỳ-kheo Tiêu Diêu đứng dậy mặc vào người bộ áo quần bằng bông gòn dày, bên ngoài khoát thêm chiếc y màu vàng rồi bước ra khoảng sân bên trái chánh điện ngay trước Văn phòng – nơi làm việc của lãnh đạo cuộc đấu tranh. Tỳ-kheo chắp tay hướng về chánh điện đãnh lễ Đức Thế tôn, quay hướng qua phía Văn phòng đãnh lễ Chư tôn Thiền đức lãnh đạo cuộc đấu tranh rồi tĩnh tọa giữa sân, mặt hướng về phía đàn Nam Giao.

Theo yêu cầu của Tỳ-kheo, trong đêm tối chúng tôi lặng lẽ chất củi khô chung quanh Người. Tay ai cũng run cầm cập. Cuối cùng các Phật tử rưới xăng từ từ lên người Tỳ-kheo. Khi xăng đã thấm đều trong y áo bông mà Tỳ-kheo đang mặc trên người, tất cả các Phật tử chăp tay lui ra chung quanh. Giây phút thiêng liêng mầu nhiệm bắt đầu. Tỳ-kheo tự bật lửa thiêu đốt thân mình để soi sáng vô minh. Ngọn lửa bừng sáng. Tiếng tụng kinh Tiếp dẫn vang lên làm cho Chư tôn Thiền đức lãnh đạo và đại chúng có mặt trong khuôn viên chùa Tư Đàm tỉnh dậy, họ vừa lạy trong tiếng kinh hòa lẫn với tiếng kêu khóc. Tỳ-kheo vẫn chắp tay ngồi bình tĩnh, niệm Phật trong ngọn lửa. Đến lúc mồ hôi và mở chảy ướt mặt, Tỳ-kheo đưa tay rút chiếc khăn kẹp trong nách ra lau mặt rồi ném cái khăn ra ngoài cho sinh viên. Anh Hoàng Văn Giàu – Đoàn trưởng Đoàn Sinh viên Phật tử Huế chụp ngay lấy chiếc khăn cháy sém, dập tắt lửa rồi cột lên đầu anh. Ty-kheo vẫn chắp tay an tọa trong ngọn lửa. Ba phút, năm phút, bảy phút, mười phút rồi đến phút thứ mười hai thì hình ảnh của Tỳ-kheo mới gục xuống.

Ngọn lửa Tiêu Diêu

Khi trời vừa sáng, nhục thân của Tỳ-kheo được cung rước vào khâm liệm và quàng tại nhà giảng chùa Từ Đàm.

Trước khi tự thiêu, Tỳ-kheo Thích Tiêu Diêu đã để lại ba bức thư:Thư thứ nhất gửi Hòa thượng Thích Tịnh Khiết; Thư thứ hai gửi cho con Thích Thiên Ân[2], các con, các cháu và thân bằng quyến thuộc; Thư thứ ba gởi Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa.

Trong thư gửi Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Tỳ-kheo nói rõ mục đích Tỳ-kheo tự thiêu:“Đêm nay tôi sẽ đem tấm thân già cúng dường mười  phương chư Phật, đồng thời dùng nó như một phương sách để thúc đẩy Tổng thống Ngô Đình Diệm kíp thời giải quyết ổn thỏa 5 nguyện vọng của Phật giáo đồ chúng ta”. 

Để tránh tình trạng chính quyền cướp xác giao cho gia đình lo việc chôn cất, vô hiệu hóa ý nghĩa “vị pháp thiêu thân” của Tỳ-kheo nên trong thư gửi con Tỳ-kheo Thích Thiên Ân và các con, các cháu…, ông dặn kỹ:

“Các con chắc đã biết lúc nầy là lúc pháp nạn, các con của cha lại được hồng phúc ở gần kinh điển, tiếp xúc với các giới tăng sĩ dày công tu tập thì ắt hẳn phận sự bảo vệ chánh pháp phải là do các con gánh vác […]. Dù có bị áp bức ngược đãi, dù có bị mua chuộc bao nhiêu đi nữa các con phải để thi hài của cha cho Giáo hội tăng già đảm nhận việc tống táng. Có như vậy sự hy sinh của cha mới có ý nghĩa. Các con làm trái lời nầy thì cha làm sao yên lòng nhắm mắt”.

Trong thư gởi Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Tỳ-kheo viết:

“Tôi tên là Đoàn Mễ Pháp danh Tâm Nguyện, tự hiệu Thích Tiêu Diêu, sẽ tự nguyện thiêu thân tôi trước là để cúng dường chư Phật sau để cảnh cáo và nhắc nhở Tổng thống vài điểm sau đây:

“1. Phải giải quyết một cách thành thật và nhanh chóng 5 nguyện vọng rất chính đáng của Phật giáo đồ chúng tôi;

2. Tôi cực lực phản đối chính quyền và quân đội đã ăn cướp thi hài của quý thầy;

3.Phản đối việc phong tỏa chùa chiền ở cố đô Huế , không cho tăng, ni và tín đồ Phật giáo vào lễ.” 

(Làm tại chùa Từ Đàm ngày 26 tháng 6 âm lịch)[3]

N.Đ.X

————————
[1] Tỳ-kheo Thích Mật Hiển  trú trì chùa Trúc Lâm, Trưởng ban Tổ chức Đại lễ Phật đản 2007 khơi đầu cuộc Vận động của Phật giáo năm 1963
[2] Tỳ-kheo Thích Thiên Ân (thế danh Đoàn Văn An, sinh 1925), con trai thứ của ông Đoàn Mễ (sau nầy là Tỳ-kheo Tiêu Diêu), xuất gia năm 10 tuổi (1935), tu tại chùa Châu Lâm (Huế), đệ tử của Hòa thượng Viên Quang (khai sơn chùa Câu Lâm. Năm 16 tuổi, thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân (Huế), năm 23 tuổi thọ Cụ túc giới đồng khóa với các thầy Minh Châu; Đức Tâm; Minh Tánh. Năm 1954, thầy được chư tôn đức cho du học Nhật Bản, tai Đại học Waseda, dến năm 1960, đậu Tiến sĩ Văn Chương, Sau đó thầy về nước, trong khi chờ Giáo hội bố trí Phật sự, thầy  nhận lời thỉnh giảng về Triết học Zen ở các trường Đại học. Năm 1961, thầy trở lại Nhật Bản tìm học pháp môn Thiền Rinzai (Lâm Tế) chính thống của các thiền sư Nhật Bản. Năm 1963, thầy có nhiều hoạt động ở Nhật Bản vận đông dư luận Nhạt Bản và thế giới ủng hộ cuộc vận động cho 5 nguyện vọng của Phật giáo đò ở miền Nam Việt Nam. Sau năm 1963, Tỳ-kheo Thiên Ân về nước dạy Triết học Zen trong các Đại học Sài Gòn, Đại học Vạn Hạnh, Đại học Huế. Đầu những năm bảy mươi của thế kỷ trươc, Ty-kheo Thiên Ân là người đầu tiên đem Phật giáo  vào Hoa Kỳ, tổ chức Giáo hội Phật giáo tại Hoa Kỳ và là người sáng lập nên chùa Việt Nam tại Los Angeles (Tiểu bang California), tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Tỳ-kheo viên tịch vào năm 1980. 
[3] Tức ngày 15-8-1963

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here