Cuốn sách gồm hai phần 1 (“Thư gởi con”) được chọn làm nhan đề cho cuốn sách, lại in cả nguyên bản tiếng Đức, có ngày tháng và nơi viết thư cụ thể (hầu hết là trên các chuyến bay) nên rõ là tác giả không “hư cấu” và xem đây là trọng tâm của tác phẩm. Tuy vậy, phần “trọng tâm” này gồm nhiều lá thư mà nội dung, ý tứ có phần trùng lặp (chủ yếu là bày tỏ tình mẹ con khi xa cánh, nào là “mẹ rất rất thương con…mẹ thường hay nằm mơ thấy con…con nhớ ăn ở tươm tất…hãy học giỏi và chăm con nghe …”) chứ không phải là một câu chuyện có nhiều tình tiết ly kỳ, lâm ly, được diễn tả qua các bức thư một số tiểu thuyết đã có, nên thiếu sức cuốn hút. Đã đành, với tác giả đây là những kỷ niệm riêng, là bộ “sưu tập” quý giá nhưng với đọc giả thì những lá thư có lẽ chỉ như là “chứng cớ” về sự gắn bó hơn cả máu thịt giữa hai mẹ con, là sự bổ sung cho nội dung trọng tâm nhất của cuốn sách mà tác giả gởi gắm qua “Lời mở đầu” (25 trang) và “Thay lời bạt” (8 trang). Có thể nói đây là trích đoạn hồi ký “TKL nuôi con và dạy con” nhưng có giá trị như một luận văn khoa học về tâm sinh lý trẻ em. Với độ dày hơn 30 trang, tác giả đã trình bày quan niệm và cả những “thao tác” cụ thể về nuôi dạy con ngay từ trong bụng mẹ (thai giáo-admin), từ “tiếng ru con trong căn nhà Tây và…lời ru đầu tiên là lời ru mà tôi đã được nghe từ khi lọt lòng: “Ru em em thét cho muồi…” cho đến việc kiên quyết làm bằng được một cái nôi theo kiểu “nhà quê” Việt Nam ngay giữa thành phố lớn nước Đức; từ “chủ trương” như một cuộc cách tân “nuôi con bằng sữa mẹ được xem là cách nuôi con tốt nhất” đến “quyết định không cho con đi học trường đặc biệt” vì tác giả quan niệm đứa con “cần” và “giữ” các tầng lớp thanh thiếu niên, cùng ganh đua bình thường…hơn là cho con cảm giác như một đối tượng đặc biệt trong xã hội, một thứ “gà nòi” “mất thăng bằng nội tâm…”
Cũng nói chuện “bú mướm” của trẻ nhỏ trong tác phẩm “ Nỗi khổ của con em” in năm 1993 BS. Nguyễn Khắc Viện đã viết: “…Trẻ em xưa được sờ vú mẹ thỏa thê, trẻ em ngày nay được sờ vú mẹ quá ít…một lần bú đâu chỉ có nuốt sữa đầy bụng, mà còn tận hưởng khoái cảm ở môi miệng được cùng mẹ da kề da, thịt kề thịt, được đôi mắt đắm đuối nhìn mẹ, mẹ đưa mắt nhìn lại…Rồi đến ngày bi kịch cao độ xảy ra; từ sáng đến chiều, mẹ bỏ con lại nhà trẻ, giao cho một cô giáo lạ mắt…Bao giờ mẹ mới trở lại, còn trở lại nữa hay không? Bố mẹ bỏ rơi, ruồng bỏ con rồi hay sao ?”…
Đó là bi kịch phổ biến của trẻ nhỏ trong đời sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, đưa đến những nỗi khổ tâm lý, lại không nói lên được như người lớn, phải ấm ức ôm lấy trong lòng. Nhiều căn bệnh và sự hư hỏng của trẻ em hiện nay bắt nguồn từ đây. Chính vì hiểu rõ như thế, nên mặc dù sống giữa một trung tâm công nghiệp châu Âu. Mai Lan – cô con gái yêu của TKL- “đã được phép bú mẹ hàng giờ…nếu có ai đưa (thứ vú cao su vô cảm) cho bé Mai Lan là bé phun ra ngay. Em lại được Bố luôn bồng ẩm, thay tã, ôm ấp, ru cho ngủ…được ngủ chung với ba – mẹ ban đêm…” Hơn thế, Mai Lan còn được bà ngoại chăm sóc, nên “đã học nói tiếng Huế thật nhuần nhuyễn, gọi là giọng Huế đặc sệt…”.
Cũng cần nói thêm, TKL dù nặng lòng với Huế, dù muốn “con luôn ở bên mẹ, ở trong mẹ”, nhắc nhở con cả những chuyện nhỏ nhặt như khi chải tóc ở nhà người khác “con nhớ lượm những sợi tóc rụng, đừng có để chúng nằm bừa bãi trên nền nhà người ta” thư viết ở Munchen, ngày 6/8/96) vẫn không hề “bảo thủ”. Trong chương “Thay lời bạt” tác giả đã viết rất hay về "đứa con vừa là con của mình, mà vừa là con Người Khác". Tác giả viết: “có thể nói chỉ khí “làm mẹ” người Phụ nữ mới trọn vẹn là Người Đàn Bà, một Con Người số nhiều, có nghĩa không một mình…ý nghĩa vươn tới “một người khác” trong chức năng mà bổn phận làm mẹ…”.
Từ đây, vấn đề cuốn sách của TKL đặt ra đã vượt qua đề tài “mẹ con” và chạm đến những vấn đề xã hội khá là “nóng” – nhất hàng triệu người Việt đang tạm phải sống xa quê hương. Đó là việc giải quyết mối quan hệ giữa văn hóa Đông-Tây, việc giáo dục “thế hệ thứ hai”-lớp người sinh ra ở nước ngoài, làm sao để họ tuy phải sống xa quê hương về cội nguồn.
Phần 2 cuốn sách là 5 bài “tùy bút cho con” tiếp tục bổ sung, diển giải tất cả những vấn đề trên bằng những trang văn óng ả, mềm mại, giàu hình ảnh và không kém chất trí tuệ …
Như thế, thiết nghĩ tác giả đã đạt được mục đích khi cho ra đời cuốn sách nhỏ này làc “…muốn chia sẽ với bạn đọc, nhất là nữ đọc giả, những người đã là mẹ, có khi đang thành bà, những người đang làm mẹ hay là mẹ hay sắp làm mẹ và ngay cả đọc giả thuộc nam giới, điều mà tôi đã và đang học khi làm mẹ – và có thể nói từ đó, học làm…” Và như thế, “cuốn sách nhỏ” đã góp một lời tác giả cho một bài toán lớn của thời đại.
N.K.P