Nghiên cứu tư tưởng Phan Bội Châu về nữ giới và nữ quyền có thể cho chúng ta minh chứng về xác quyết trên. Chúng tôi sẽ tập trung nhiều nhứt ở giai đoạn “Ông già Bến Ngự” trong cuộc đời Phan Bội Châu (PBC). Nhưng thật ra, thái độ của Phan đối với vấn đề nữ giới và nữ quyền có tính nhứt quán khá đáng ngạc nhiên. Chúng tôi sẽ thử bước đầu lý giải nguyên nhân.
Với những người phụ nữ
Trong gia đình
Người phụ nữ đầu tiên phải nói tới trong đời Phan là bà vợ chánh Thái Thị Huyên (1866-1936), lớn hơn ông một tuổi. Hứa hôn từ khi hai trẻ mới thôi nôi, thành hôn vào độ tuổi đôi mươi, sau vài năm chưa có con, bà cưới vợ thứ cho chồng, vì thông cảm nỗi lo bốn đời « độc đinh » trong gia tộc, khiến cha chồng « khát cháu ». Phan có thể không động tâm vì nhan sắc, nhưng thâm cảm nghĩa tình vợ đã tận tụy chăm sóc cha già đau yếu, một tay “gánh vác giang san nhà chồng” trong hoàn cảnh ông mồ côi mẹ đã tám năm, nhà đơn chiếc cha già em dại, ông thì « luôn năm ngồi quán ở phương xa, cái gánh sớm chiều gạo nước gởi vào trên vai mẹ mầy » (1) . Trong tình ông với vợ lớn, trĩu nặng lời trăn trối của cha lúc lâm chung: « Ta chết rồi, mầy phải hết sức dạy cháu ta, và hết sức thương vợ mầy. Vợ mầy thờ ta rất hiếu…” Cưới vợ cho chồng để cha chồng thỏa nguyện được thấy cháu đầu; vì hoan hỉ của cha, bà Huyên lại « càng ân đức” thứ thiếp của chồng, « thân yêu nhau hơn chị em ruột »; đó là cái đức của bực hiền phụ « về thời cựu », như Phan nhận xét.
Năm 1901, bà vợ thứ Nguyễn Thị Đường (?-1934) sanh con trai, được đặt tên Phan Nghi Đệ (1901-1946), tiếp theo là một gái tên Phan Thị Em (1902-1997), về sau làm vợ ông Vương Thúc Oánh. Bà Huyên sanh một trai, đặt tên Phan Nghi Huynh (1904-1946). Con sanh sau, mà vẫn đặt tên Huynh vì đó là con vợ chánh; có thể coi đó là biểu hiện tôn trọng truyền thống, con vợ chánh làm anh. Mặt khác, con sanh trước mà vẫn đặt tên Đệ, để “chờ” một người anh từ vợ chánh, phải chăng, đâu đó, cũng là sự trọng thị ân tình đối với chánh thất của mình? Điều chắc chắn là vài thế hệ – chênh vênh, do dự hay trầm tĩnh, tự tin – giữa hai đường tân cựu như Phan Bội Châu, như thế hệ bà Đạm Phương (1881-1947) với hai dòng con của mình và thứ thiếp của chồng, bà vợ quan tổng đốc Vi Văn Định đã chết thảm vì tai nạn, mà sâu xa có nguồn cội ghen tuông, để lại tủi hờn cho con cái, hay thế hệ bà Cao Xuân Xang (sanh năm 1905, tức quận chúa Hồ Thị Hạnh, sau là sư bà Diệu Không) với dòng con đời vợ trước của chồng, bà Nguyễn Thị Kiêm (sanh năm 1914) – nhà nữ quyền cấp tiến nhứt, mà cũng đành chấp nhận cho chồng cưới tiếp vợ hai sau khi mình mất khả năng sanh sản – đều đã chọn lựa những thái độ cư xử không còn hoàn toàn như trước.
Theo lời tâm sự của Phan Bội Châu với con trai năm 1936, không lâu trước lúc bà Huyên từ trần, có hai điều khiến ông trọn đời nhớ ơn vợ. Thứ nhứt, bà không quản cảnh nhà nghèo, luôn chăm chút lo cho chồng có đủ tiền đãi bạn, vì biết ông giao du rộng là lo việc nước. Cuối đời nhìn lại, ông ngậm ngùi: « Mẹ mầy có gì đâu! Chỉ dựa vào một triêng, hai thúng, từ mai tới hôm mà hễ nghe chồng đòi gì thời có nấy. Bổng dạy học của ta tuy nhiều, nhưng chưa một đồng xu nào là tay mẹ mầy được xài phí. Khổ cực mấy nhưng không sắc buồn; khó nhọc mấy nhưng không tiếng giận. […Trong] khoảng hơn 10 năm, nghèo đói mà bạn bè nhiều; cùng khốn mà chí khí vững, thiệt một phần nữa là nhờ ân mẹ mầy. » Điều thứ hai khiến ông cảm phục, ông kể lại như sau:
Từ năm ta đã 36 tuổi cho tới ngày xuất dương, những công cuộc kinh dinh việc nước, mẹ mầy ngầm biết thảy, nhưng chưa từng hé răng một lời. Duy có một ngày kia, ta tình cờ ngồi một mình, mẹ mầy ngồi dựa cột, kế một bên ta nói: « Thầy chắc toan bắt cọp đó mà? Cọp chưa thấy bắt mà người ta đã biết nhiều, sao thế? » Mẹ mầy tuy có nói câu ấy, mà lúc đó ta làm ngơ, ta thiệt dở quá! (tr. 351)
Khi thứ thất mãn phần, Phan Bội Châu cũng thác lời vợ cả khóc bà bằng đôi câu đối:
Có chồng mà ở goá, mấy chục năm tròn, ơn Trời gặp hội đoàn viên, vội bỏ đi đâu, trao gánh nặng về phần chị cả;
Vì nước phải liều mình, biết bao bạn cũ, cõi Phật đưa lời trân trọng, thiêng thời phải gánh, chung lòng hăng hái với thầy tôi.
Đối với cả hai bà vợ, dẫu phải đặt nợ nước trước tình nhà, ông tỏ ra thông cảm nỗi quạnh hiu « có chồng mà ở góa », hay nhớ mãi lời vợ chánh khi gặp lại ở tỉnh thành Nghệ An: « Vợ chồng ly biệt nhau hơn 20 năm, nay được một lần giáp mặt thầy, trong lòng tôi đã mãn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ trông mong thầy giữ được lòng thầy như xưa, thầy làm những việc gì mặc thầy, thầy không phiền nghĩ tới vợ con. » Vợ đã luôn « trưởng chí cho chồng » (Hồ Biểu Chánh), nên khi nhìn lại đời mình hơn 10 năm ẩn dật nơi Bến Ngự không còn cơ hội tung hoành, ông tự trách: « ủ dài năm tháng, chẳng một việc gì làm […]. Mẹ mầy thật chẳng phụ ta, ta phụ mẹ mầy! »
Phải chăng có phần vì vậy mà khi tái hiện nhân vật lịch sử, Phan ít khi quên họ là “phận đàn bà”, đồng thời không tiếc lời ca ngợi gương vì nước quên thân?
Khi tái hiện nhân vật lịch sử
Trước 1945, hẳn không ngẫu nhiên khi cả hai trí thức nam giới ủng hộ nữ quyền kịch liệt nhứt là Phan Bội Châu (1867-1940) và Nguyễn An Ninh (1900-1943) (2)đều viết tuồng về hai bà Trưng nhằm phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Truyện Trưng nữ vương diễn tuồng (3) sáng tác năm 1911 chỉ kể về cuộc đấu tranh thắng lợi giết Tô Định trả thù chồng đền nợ nước mà không nói gì đến giai đoạn bại vong. Không chỉ hai bà là « cân quắc anh thư » mà các nữ nhân vật phụ (thị nữ Liên Hoàn xung phong đi thuyết phục anh là lý trưởng chiêu mộ nghĩa quân, trong lúc hề đồng nghe « sai đi đánh giặc thì tìm cách chối mau mau »; cố bà nhà đò hăng hái đưa quân nên được ban thưởng ngày thắng trận, trong lúc cố ông nhát gan không dám, nên sau đó hú hồn vì « có bà chớ cứ như tao cả thì giừ hay phải tội bà hè? ») đều “minh họa” cho quan điểm được Phan Bội Châu nhắc lại nhiều lần như một điều tâm niệm:
Phường tai mắt râu mày ai đó đều đành thân tôi tớ biết gì đâu. […] Có kẻ mày râu chải chuốt, chẳng qua là lợn cũi chim lồng, nhiều người xiêm áo bảnh bao, quen thói những mặt tôi mũi tớ! Thế là ta phải xắn cánh quần thoa, ra tay cân quắc, chua cay bao nại, cửa các phòng khuê, bồ liễu quản chi dầm mưa dãi nắng. (tr. 75, 108)
Đối với hai bà Trưng, Phan có lòng ngưỡng mộ đặc biệt. Ông từng viết bài (4) chứng minh Trưng nữ vương là « người tổ đích nước ta », « là một vị Phật nhà, là tổ nước Nam ta, […] là người sinh đẻ ra người nước Nam ta, là người có công đức lớn với nước Nam ta, […] Trưng nữ vương là thủy tổ. » [PBC nhấn mạnh] Xin lưu ý đây không còn là thơ văn ca ngợi, mà là văn chính luận, trong đó Phan phản bác quan điểm: « Trưng nữ vương là đàn bà không đáng gọi là tổ » bằng lập luận: « Nói thế là quá câu nệ: lúc bắt đầu loài người mới sinh ra, chỉ biết có mẹ mà không biết có cha thì gọi mẹ là tổ, thì có hại gì?» Và ông đưa ra hai lẽ giải thích vì sao ông « dám chủ trương thuyết ấy », một lẽ về lịch sử học, một lẽ về “nhân loại tâm lý học”, thể hiện ông đã đọc khá rộng về khoa học xã hội phương Tây. Kết bài báo, ông thách: « Các nhà sử học trong nước nghĩ sao? »
Kể về “những vị anh hùng chống ngoại xâm mà thất bại”, ông bắt đầu bằng:
Gái Cửu Chân tên truyền Triệu Ẩu,
Tài phi thường chẳng lọ là trai. […]
Trỏ non sông thề nước là chồng.
Anh thư chấp cả anh hùng
Thấy phường cá chậu chim lồng khinh khô… (Toàn tập, t. 5, tr. 78)
Vịnh đền bà Triệu, ông gọi bà là « Ran Đác nhà mình », Jeanne d’Arc là nữ anh hùng cứu quốc của lịch sử Pháp.
Trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử (5) nghĩa quân tập hợp đầu tiên có 49 người, thì cũng có thêm một cô Chí quyết tâm vì đại nghĩa. Cô tranh luận:
Các anh có kế hoạch lớn như thế, mà bỏ tôi ra ngoài, tôi không phải người sao? Cái lòng thương nước giữ nòi có phải là độc quyền của nam giới đâu? […] Nếu các anh đều là anh hùng, thì hẳn không bỏ tôi. Nếu cho tôi là đồ đàn bà mà gạt ra, thì tôi cũng xin cám ơn các anh. Tôi cứ tự làm theo chí tôi thôi, thề không làm nhỡ việc các anh. (tr. 311-312)
Nghĩa quân nhứt tề mời cô vào đảng, vì lẽ « chúng ta kết giao chỉ cốt phần hồn, không cần sắc tướng. Nếu ai tán thành đánh giặc tức là anh em rất yêu kính của chúng ta. » Đó cũng là cách nhìn của tác giả, nên ông không ngần ngại đếm « anh em dự hội tất cả có 50 người. » Đi chiêu mộ thêm nhiều chiến sĩ, cô Chí trải lòng với chị em: « Chúng ta là phận đàn bà, không được kể là loài người đã lâu lắm rồi! » Và kêu gọi:
Những cái nhục của bạn gái chúng ta, tức là cái nhục của bản thân chúng ta. Thù ấy chưa trả được, mà ta cứ giương mắt sống trên đời thì thật là đáng thương. […] Chị em ta may được làm người, tai mắt đầu óc hỏi có kém gì đàn ông? Những sự nghiệp anh hùng có phải chỉ một mình đàn ông làm được là thôi đâu? […] Trưng Trắc chỉ là một cô gái tỉnh Sơn Tây, cất quân trả thù, […] tự làm vua một nước, nhân dân đến nay còn ca tụng […]. Đó có phải là đàn bà không? Người ta chỉ sợ không có chí, nếu có chí khí đàn bà cũng chả thua gì đàn ông. (tr. 356-357)
Trong các nữ đồng chí, còn có ni cô tên Liên, vốn « là một cô gái trẻ tuổi, người Thăng Long, gia thế là một họ lớn đời Trần », ông và cha đều là liệt sĩ chống Minh, mẹ mất trong loạn lạc, cô mới nương thân cửa Phật song vẫn đau đáu nỗi niềm nước mất nhà tan. Được hỏi về « tôn chỉ nhà Phật rất trọng từ bi, nhất thiết hiếu sinh », cô quả quyết:
Không phải thế, chân lý nhà Phật bao hàm muôn có. Giết cái đáng giết là lấy sát làm sinh, sinh cái không đáng sinh thì lấy sinh làm sát. […] Cái tôn chỉ của lẽ từ bi không phải là chỉ nói sinh. Cho nên những kẻ có thể giết người không chớp mắt ấy có thể tức thời thành Phật. (tr. 360)
Với cách hiểu vừa khoáng đạt vừa thâm thúy đó, nếu nhìn sau nầy trong cách mạng và hai cuộc kháng chiến sử gia quan phương hay nói cách mạng cảm hóa cả nhà chùa, song phải chăng, căn cội hơn, là chân lý nhà Phật bao hàm muôn có đó đã khiến các bậc chân tu hòa vào dòng chảy chống bạo tàn vì lẽ hiếu sinh?
Và những người phụ nữ đồng tâm
Cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi nhà nho thấm đẫm tinh thần Phật giáo, mở trí thu lấy khôn ngoan hiểu biết của phương Tây, luôn tràn trề cảm xúc đồng tâm đồng chí với những người cũng như ông sôi nổi nhiệt tình yêu nước và sẵn sàng xả thân vì đại nghĩa cứu dân. Vậy mà chúng tôi vẫn ngàn lần cảm phục cái cách thế PBC diễn đạt tình cảm với những người ông coi là nữ đồng chí của mình.
Lê Thị Đàn là nữ đồng chí đầu tiên mà Phan kết nạp vào hội Duy Tân năm 1903.
Trong suốt 7 năm hoạt động, bà đã cáng đáng nhiều công việc hệ trọng, vận chuyển tiền bạc, thư từ, tài liệu từ Quảng Nam- Quảng Ngãi qua Huế rồi ra Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Phòng để đưa ra nước ngoài cho du học sinh tại Nhật Bản. Có thời kỳ bà khoác áo cà sa để làm nhiệm vụ liên lạc giữa các cơ sở bí mật khắp Bắc, Trung, Nam. Bà được các đồng chí trong Duy Tân hội hết sức khen ngợi bởi tánh cương nghị, trung tín, giỏi ứng xử.
Bà còn tham gia đấu tranh chống lại sự chèn ép của nhà nước phong kiến và thực dân Pháp. Năm 1908 Lê Thị Đàn cùng một số nhân vật trọng yếu ở Thừa Thiên – Huế như các ông Khoá Mãnh, Khoá Mộng kêu gọi nhân dân tham gia phong trào kháng thuế; cùng nhân sĩ Nguyễn Đình Tiến cổ vũ học sinh bỏ trường thi trong kỳ thi khoá sinh huyện Hương Trà để phản đối chánh quyền.
Năm 1910 bà bị thực dân Pháp bắt giam và tra tấn dã man nhưng vẫn không khai báo bí mật nào của hội Duy Tân. Trong nhà lao bà đã tự sát bằng một dải lụa trắng, để lại một bài thơ tuyệt mạng viết bằng máu (6) :
Huyết lệ dầu khan, giận chửa sờn
Chiều hôm tê tái nước sông Hương
Đảng ta khi quét xong quân giặc
Trước nấm mồ em đốt bó nhang.
Suối vàng gạt lệ gặp Bà Trưng
Máu thắm hồn quyên khóc thảm thương
Lạy Phật, thân này còn hoá kiếp
Tay xin nghìn cánh, cánh nghìn thương.
Lạnh lùng cảnh ngục lúc quyên sinh
Biển rộng đồng không mình biết mình
Chết với nước non em tốt số
Chạnh lòng tủi hổ lũ trâm anh. (bản dịch Đặng Thai Mai)
Xin lưu ý câu cuối trong nguyên tác là: Thương tâm quan lũ kỷ nam nhi. Ngay trong vườn nhà, năm 1928 Ông già Bến Ngự đã lập miếu thờ Lê Thị Đàn, được ông mệnh danh Ấu Triệu. Ông đề bia Ấu Triệu một bài thơ mở đầu khá thách thức:
Lọ là các cậu, lọ là ông
Ai bảo rằng thư, chẳng phải hùng?
và đôi câu đối:
Tâm khả huyền ư thiên nhật nguyệt
Thân tàng giá dữ Việt giang sơn
(Tấm thân trót gả giang sơn Việt
Tấc dạ soi chung nhật nguyệt trời), t. 6, tr. 398
Với các nữ chiến sĩ cộng sản, tuy không cùng một tổ chức, nhưng Phan luôn tỏ sự thông cảm ân tình và rất rõ ràng coi họ là đồng tâm đồng chí. Trong bài tỏ lòng thương tiếc đồng chí Thái Thị Bôi (7), mất vì bạo bệnh, ông nhắc lại thân thế:
Trường Đồng Khánh năm xưa rao bãi khóa, vì muốn thay khuôn mẫu nhà trường, đắp nền khuôn cho tuổi trẻ, uốn mây thổi gió, lưỡi hùng đàm hơn thảy bạn quần thoa;
Đảng Thanh niên thuở nọ rập đồng tâm, những mong vớt lầm than cho dòng họ, phơi gan ruột với đồng bào, vượt núi qua đèo, mùi khoái lạc kể chi quân tửu phạn.
Dấn thân cho đảng, gánh gian lao đứng trước đội tuyên truyền;
Nộp xác cho dân, vóc yểu điệu gieo vào trường hoạn nạn.
Ông ca ngợi người vợ cùng chí hướng với chồng, bất khuất trước đòn roi tra tấn:
Chồng mình đã đày đọa chưa xong,
Thân ta cũng giam cùm đã chán.
Lòng sắt đá mới là can đảm, thương cho ba chú lính uổng công nách gậy múa roi,
Thân yếm khăn mà thật anh hùng, hại đến mấy quan trên mệt sức vỗ bàn đập án.
Bởi người phụ nữ « gan như thế, can trường như thế », nên « thôi chồng con đành một chữ hy sinh ». Ông thương xót « với chồng với con, với toàn gia thân thích, chị đành nhất biệt trường từ », đồng thời kính phục « tủi hàng nghìn, cách đảng Đông dương, nào Nam, nào Bắc, nào toàn hạt Trung kỳ ta phải đồng thanh bi thán».
Năm 1930, năm nữ chiến sĩ cộng sản ở Hà Tĩnh (8) bị địch lột trần truồng hòng làm cho họ xấu hổ phải cung khai, nhưng họ can trường mắng lại, Phan phẫn uất viết ngay bài « vọng tế » (9) . Rất ý nghĩa, bài nầy thác lời các nữ chiến sĩ, trước hết kêu gọi chị em bạn gái ý thức khổ nhục mất nước:
Thưa các bà các cô!
Lạy các bà các cô!
Chẳng khổ gì hơn người mất nước;
Chẳng nhục gì hơn kiếp làm nô!
Dù sang đến quan cực phẩm, dù quý đến vị làm vua
Mà còn nấp nép dưới cờ ba sắc.Trước mắt toàn quyền, khâm sứ phải vạn tuế, tung hô!
Quyền chủ ở trong tay người nắm, Chúng ta có gì là quyền to?
Thử nghĩ như đức Duy Tân, vua Thành Thái…
Có bao giờ thấy hoàng đế ở tù?
Lại càng ý nghĩa khi sự xúc phạm nhân phẩm phụ nữ được vạch trần là chà đạp lên đạo đức, văn minh:
Thưa các bà các cô!
Lạy các bà các cô!
Năm chị em chúng tôi truồng thân trụi xác,
Để cho món cường quyền, nhà tư bản đứng vỗ tay cười!
Văn minh thế hết rồi!
Đạo đức thế hết rồi!
Ơn bảo hộ là thế!
Ơn khai hóa là thế!Xin bà con ngẫm lại mà coi!
Song thống thiết và sâu nặng ân tình hơn cả là bài Văn tế Cô Giang (10), nữ chiến sĩ đồng thời là người yêu của Đảng trưởng Việt Nam Quốc dân đảng Nguyễn Thái Học. Trước hết, ông đề cao người phụ nữ ý thức rõ về trách nhiệm của mình với tư cách giới:
Sóng nhân đạo ở Hai mươi thế kỷ, bạn má hồng toan cướp gái làm trai
Gương nữ hùng treo một khóe trời Nam, lũ da trắng phải ghê dòng nước Việt
Trên quốc sử mực chàm giấy phấn, “ông” cả đoàn nhan nhản bầy nô
Dưới Long Thành màu biếc cỏ xanh, gái đến thế rành rành chữ “liệt”
Phan quen thuộc với quan điểm nhà nho coi chí khí, can trường, dũng liệt là thuộc tính của nam giới. Nhưng cô Giang dưới mắt ông là « vóc quần thoa nhưng chí khí tu mi; thân khuê các mà can trường khí tiết ». Nói về thân thế Nguyễn Thị Giang, ông đồng thời mô tả cả một thế hệ nữ sinh cách mạng: « Thuở bé nhờ ơn gia giáo, Hán học vừa thông; tuổi xanh vào học Quốc trường, Pháp văn cũng biết; […] ngó giang sơn riêng một lòng đau; […] thấy nô lệ dốc đôi tròng nguýt; xót bốn ngàn năm tổ quốc […]; thương hai lăm triệu đồng bào…». Ông hiểu sâu sắc trong thế hệ nữ trí thức trẻ đó có hai nguồn sức mạnh:
Xem sách Pháp tầng nghĩ Lân Đá, La Lan (11) thuở nọ, chị em mình há để ai hơn!
Giở sử nhà thoạt vỗ tay reo, Bà Trưng, Cô Triệu sau này, non nước ấy có đâu hồn chết?
Ông cũng công bằng nhận xét đóng góp của Nguyễn Thị Giang so với hai người thân yêu nhứt của cô:
Thầy Học vẫn tài hùng phách tráng, nhờ có cô mà lông cánh rợp tứ phương
Chị Bắc đã đành dạ sắt lòng son, cậy có em mới trong ngoài xưng lưỡng kiệt (12)
Vốn được đương thời xưng tụng là nhà ái quốc vĩ đại, được Việt Nam Quốc dân đảng cung thỉnh, tôn xưng là lãnh tụ danh dự của đảng, nên trước sự hy sinh oanh liệt của đảng trưởng cùng người yêu, ông không khỏi xót xa: « Tầng mấy lúc hồng đi cá lại, ước ao chung gánh ruổi trường đồ; Giận bao phen én Bắc nhạn Nam, đau đớn chia tay thành vĩnh biệt. » Riêng với cô Giang, tình cảm của Phan vừa thống thiết, nồng nàn vừa rất mực quý trọng. Nói về cô, tác giả bài văn tế « nhớ bạn ta xưa ». Cảm động hơn, ông chân thành, tha thiết: « Em Châu nay: tình nghĩa cảm sâu, duyên xưa tấc thiệt. […] Nợ hồ thỉ em chưa trắng số, mài nanh giũa vuốt, ước ba sinh chắc có ngày đền; Thù nước nhà chị hãy tím gan, nuốt muối ngậm gừng hồn chín suối chờ xem trời xét. » Cần nhắc, Nguyễn Thị Giang sanh năm 1906, thua PBC gần 40 tuổi, chưa kể chênh lệch “vai vế” giữa nhà khoa bảng thành danh và cô nữ sinh từng không ngần ngại gánh mía bán rong để hoạt động binh vận, đó là chưa nói quan hệ vợ chồng ngoài khuôn phép giữa Học và Giang; khi Giang tự sát theo người yêu, cô đã mang thai ba tháng. Xưng “em” với cô Giang, theo chúng tôi, Phan đã hành xử theo đạo lý cổ truyền nguồn cội Việt, như khi Kim Trọng sụp lạy Thúy Kiều, vì kính trọng cao vời phẩm chất con người nơi bạn tâm giao. Hay cũng có thể nói, ông già Bến Ngự sống theo tâm Phật, giữa người yêu nước cùng dốc sức dốc lòng cho một công nghiệp chưa thành, không hề phân biệt tuổi tác, giới tính hay thân phận mà chỉ chung một tâm nguyện cứu nước cứu dân.
Trong cách Phan điếu tế Nguyễn Thị Giang cũng như nhiều bực nữ lưu anh kiệt khác (không chỉ là người Việt. Xem lại trích « Khóc bà Rô Lăng »), thấm đẫm tinh thần Phật giáo. Phan nhận định xác đáng rằng sự thất bại của Việt Nam Quốc dân đảng là do « vận nước đương truân, tai trời chưa hết; việc sơ thành bỗng một phút tan hoang, mưu trung bại bởi mấy thằng gian quyệt ». Nguyên nhân bên ngoài là vậy, nhưng người bi, trí, dũng thì « thiết thạch nhất tâm, chu toàn bách chuyết »:
Sống là không, mà thác cũng là không, đạn kề cổ chẳng nhường cho giặc giết
Súng lục liên chốc nhát vang lừng một tiếng, núi đổ sông nhào
Hồn cứu tử chưa tan chắc chắn trùng lai, thần reo quỉ thét
Cho nên, đối với người đồng tâm, « khóc chẳng gì hay; nói không kể xiết »; chỉ có hành động để trả nghĩa cố nhân:
Chị em mình chi thiếu bạn khôn ngoan
Đoàn thể lớn xin từ nay cố kết
Xúm bạn gái sẽ theo gót chị, thác đã linh mà sống lại càng linh
Xoay cuộc đời sẽ xóa bàn cờ, quốc chưa diệt thì chủng không thể diệt!
Từ Trưng, Triệu xa xưa tới đảng quốc gia, cộng sản thời hiện đại, người nghiên cứu phụ nữ, nghiên cứu giới thường phải băn khoăn tự hỏi: đâu là phần nhìn nhận giới, đâu là nhu cầu “dân tộc hóa, quốc hữu hóa” (13) đàn bà? PBC xuất sắc vượt qua “lửa thử vàng” nầy, bởi sự đồng cảm, sẻ chia, quý trọng của ông thực sự dành cho nhiều phụ nữ, trẻ em gái trong nhiều hoàn cảnh rất khác nhau, không nhứt thiết họ phải là người Việt hay là chiến sĩ. Theo chúng tôi, hoàn toàn có cơ sở để nói có một tư tưởng có hệ thống của PBC về nữ giới và nữ quyền.
Đón đọc phần 2: Với nữ giới và nữ quyền
Chú thích:
(1) Theo Phan Bội Châu tiên sinh di cảo, tài liệu chép tay của Tống Châu Phu, in lại trong Chương Thâu (sưu tầm và biên soạn) Phan Bội Châu toàn tập, Thuận Hóa, Huế, 1990, t. 4, tr. 349-351.
(2)Hai bà Trưng, Bảo Tồn, Sài Gòn, 1928, 79 tr.
(3)Phan Bội Châu toàn tập, sđd, t. 3, tr. 23-120.
(4)« Ai là tổ nước ta? Người nước ta với sử nước ta », Tiếng dân, số 656, ngày 6/1/1934, in lại trong PBC toàn tập, t. 4, tr. 258-261.
(5) Phan Bội Châu toàn tập, sđd, t. 3, tr. 287-435.
(6)Trần Nguyễn Khánh Phong, tạp chí Sông Hương số 164, 10/2002.
(7) « Thương tiếc đ/c Thái Thị Bôi ở Quảng Nam, mất ngày 23/2/1938 », Toàn tập, t. 6, tr. 368-370.
(8) Chúng ta chỉ biết tên hai người là các chị Phan Thị Gạo, Võ Thị Ngọ.
(9) « Vọng tế các nữ đồng chí cộng sản ở Nghệ Tĩnh », Toàn tập, t. 6, tr. 329.
(10) Toàn tập, t. 6, tr. 318-321.
(11) Jeanne d’Arc, nữ anh hùng yêu nước. Bà Roland, nữ chiến sĩ cách mạng bị giết oan trong Cách mạng Pháp, lúc lên máy chém đã nói: « Ôi tự do! Nhân danh mi người ta đã phạm biết bao nhiêu tội ác! » Phan từng viết riêng một bài « Khóc bà Rô Lăng », có câu: « Tấc lưỡi tự do thây sấm sét, Chiếc thuyền vô úy dẹp phong ba. »
(12) Xem thêm: « Chị khóc em (Khi em chết theo người yêu) », « Cô khóc cậu », « Hồn cậu trả lời », t. 5, tr. 171-172.
(13) Nationalisation là thuật ngữ được nhà nghiên cứu lịch sử phụ nữ người Pháp Françoise Thébaud tiên phong sử dụng để « nhấn mạnh việc mỗi quốc gia, bằng nhiều phương thức khác nhau, tìm cách huy động phụ nữ phục vụ tổ quốc khi có chiến tranh, có cách mạng hay cần gia tăng dân số, v.v… Lúc đó phụ nữ không còn chỉ bị nhốt trong khuôn khổ gia đình (hoặc đời sống gia đình cũng bị/được chánh trị hóa) mà trở thành người đối thoại của nhà nước; tình hình nầy có thể dẫn đến kết quả tốt nhứt hay tồi tệ nhứt. » Trích thư trả lời ngày 11/7/2007 của Françoise Thébaud cho câu hỏi của chúng tôi.