“Đàm hoa lạc khứ hữu dư hương” (Hoa đàm tuy rụng vẫn còn hương). Chúng con luôn giác tỉnh rằng: Thân ngũ uẩn của Thầy tuy mất, song pháp thân của Thầy vẫn vô sanh bất diệt. Với đức nhã nhặn, khiêm cung, với ánh sáng đạo hạnh, một lòng vị pháp lợi sanh và với tình thương bao la cao cả của Thầy, đối với chúng con, Thầy mãi là ánh sáng đêm dài, là vầng tuệ nhật sáng soi. Là bóng mát bao dung, là thuyền từ cứu độ, là dòng pháp nhũ bất tận nuôi dưỡng huệ mạng và tiếp sức cho chúng con trên con đường tu tập giải thoát. Đó chính là niềm tin sức mạnh, là nguồn an lạc mỗi khi chúng con tưởng nhớ về Thầy.
Sắp đến ngày húy nhật của Thầy, con xin viết đôi dòng tưởng niệm và ghi lại tiểu sử để ôn lại công hạnh, cuộc đời và sự nghiệp hành đạo của Thầy với một niệm thành kính hướng về tưởng nhớ đến Ân sư.
Tiểu sử Cố Hòa Thượng thượng Thích Từ Phương
Nguyên:
-Uỷ viên Hội đồng Trị sự GHPGVN,
-Phó Ban Nghi lễ TƯGHPGVN,
-Trưởng Ban Nghi lễ PG Tỉnh Thừa Thiên Huế.
-Đại biểu Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh TTH,
-Tọa chủ Tổ đình Tây Thiên Huế.
I. Thân thế:
Hòa Thượng sinh ngày 10. 5. 1946 (Năm Bính Tuất) tại làng Phò Trạch, Xã Phong Bình, Huyện Phong Điền, Tỉnh Thừa Thiên Huế, trong một gia đình trung lưu, yêu nước, mến mộ Phật pháp. Thân phụ là Phạm Bá Đinh, liệt sĩ hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc năm 1968 và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn thị Ngắn, có tín tâm Tam Bảo. Thầy là con trai độc nhất trong gia đình có hai anh em một trai, một gái.
II. Xuất gia tu học và hành đạo:
Thuở thiếu thời Hòa Thượng thường theo mẹ đến chùa, lễ Phật rồi tham gia sinh hoạt Gia đình Phật Tử tại địa phương, chính nhờ môi trường giáo dục Phật giáo này cùng với tư chất thông minh mà tín tâm Tam Bảo phát khởi mạnh mẽ. Năm lên 14 tuổi (năm 1960), tự đến chùa Thiên Minh, phường An cựu Huế để trau giồi huệ nghiệp và theo học nghề thuốc đông y với người cậu nhưng chỉ trong một thời gian ngắn Thầy đã phát tâm tìm cầu xuất gia học đạo với Hòa Thượng Thiện Hỷ ở chùa Tây Thiên thuộc Thôn Thượng I, Xã Thủy Xuân, Tp Huế. Mong ước đã trở thành hiện thực, từ đây cõi lòng thanh thản hân hoan, lại được sống trong vòng tay yêu thương, che chở, dìu dắt cua Bổn sư, Thầy càng siêng năng cần mẫn, tu học kinh luật, rèn luyện thân tâm, trau giồi đạo hạnh, theo học các lớp sơ, trung Phật học tại Từ Đàm, Linh Quang và Bảo Quốc. Bốn năm sau, (năm 1964) Thầy được Bổn sư cho thọ Sa Di giới tại giới đàn Vạn Hạnh, tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu với pháp tự Từ Phương. Ngay sau khi lãnh thọ giới pháp, vâng lệnh Bổn sư, Thầy vào Đà Lạt rồi Sài Gòn tham học nội điển và ngoại điển. Trong thời gian này, Thầy đã theo học Trường Quốc Gia Âm Nhạc và thực tập hạnh khất thực. Năm 1970 Thầy trở về Huế thọ Cụ túc giới tại giới đàn Vĩnh Gia tổ chức tại Đà nẵng do Đức Đệ Nhị Tăng Thống GHPGVNTN Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên làm đàn đầu. Từ đó Thầy suy tư về trách vụ hoằng pháp lợi sanh, đối với tự thân cảm nhận sâu sắc lời dạy của Tổ khai sơn Chùa Trúc Lâm: “Nghi lễ là đội quân tiên phong trong việc đưa người vào đạo” Xét thấy phù hợp với năng khiếu của mình, Thầy đã dốc lòng tham học với các bậc Tôn túc thâm hiểu nghi lễ như Hòa Thượng Hiếu Quang, HT Thích Chơn Thức và HT Thích Chánh Nguyên. Năm 28 tuổi (1971) Thầy được GHPG miền Vạn Hạnh giao giữ chức vụ Chánh Đại diện Phật giáo Huyện Nam Hòa và trú trì chùa Kiên Đài. Năm 1975, quê hương hoàn toàn được giải phóng, nước nhà thống nhất, Thầy là một trong những vị tiên phong nỗ lực cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Năm 1980, sau khi HT Thích Giác Nhiên Đệ Nhất Tôn Chứng Hội Đồng Trưởng Lão, Trú trì Tổ đình Tây Thiên viên tịch, môn phái đã họp và cử Thầy làm Trú trì chùa Tây Thiên để trông coi chốn Tổ tòng lâm.
Kể từ khi GHPGVN ra đời, BTSGHPG Tỉnh Bình Trị Thiên được thành lập năm 1982, Thầy được Giáo Hội mời tham gia giữ chức vụ Uỷ viên BTS kiêm Chánh đại diện Phật giáo Huyện Phú Lộc. Liên tiếp trong 2 nhiệm kỳ, dưới sự lãnh đạo của Thầy, PG huyện này luôn là lá cờ đầu trong các công tác Phật sự được GH giao phó. Sang Đại hội kỳ III năm 1997, Thầy được TUGH tấn phong lên hàng giáo phẩm Thượng tọa, giữ chức vụ Trưởng ban nghi lễ PG Tỉnh Thừa Thiên Huế cho đến nhiệm kỳ thứ IV năm 2002. Thầy được mời tham gia Uỷ viên HĐTS đảm trách Phó trưởng ban nghi lễ TUGHPGVN. Trong cương vị trưởng ban chuyên ngành, Thầy đã rèn luyện kỹ năng và phát huy sự trong sáng của nghi lễ Phật giáo, tạo được sự cảm kích của mọi tầng lớp nhân dân trong nước và nước ngoài. Vào tháng 1 năm 1997, Đài phát thanh Quốc gia Pháp mời Thầy sang trình diễn nghi lễ Phật giáo tại Viện bảo tàng Pháp quốc. Buổi trình diễn được ghi âm và truyền thanh trực tiếp trên đài phát thanh tại Paris. Tuy chỉ trong 45 phút nhưng đã để lại nguồn cảm hứng cho hàng triệu người nghe. Bộ Văn hóa thông tin của Pháp đã đánh giá rất cao và được xếp vào một trong 10 đĩa hay nhất trong năm và cho phát hành khoản 20.000 đĩa CD. Chính vì lẽ đó mà vào tháng 3 năm 1998, nhà Văn hóa thế giới tại Pháp lại mời Thầy sang trình diễn nghi lễ Phật giáo tại Paris một lần nữa. Lần này Thầy trình diễn ba đêm liên tục được đông đảo quần chúng hoan nghênh và thưởng thức. Mặc dù bận rộn với nhiều công tác Phật sự và còn lo việc Tổ đình, dạy chúng, nhưng Thầy đã để tâm nghiên cứu và suy tầm nền nghi lễ cổ truyền PG, tiến hành lớp học nghi lễ và hình thành đội ngũ ‘Vũ hội lục cúng hoa đăng’ cho 50 Tăng sinh đã trình diễn nhiều lần cho các đại lễ Phật giáo như Phật đản, Lễ hội Quán Thế Âm và rất được Tăng Ni, đồng bào Phật tử các giới ngưỡng mộ.
Luôn tận tâm với sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, đáp lại lòng tin kính và mến mộ của đồng bào Phật tử, Thầy đã dấn thân quên mình qua mọi công tác Phật sự, sinh hoạt nghi lễ với tâm nguyện xoa dịu niềm đau nổi khổ của kiếp nhân sinh và tăng trưởng lòng hiếu đạo, thiện tâm cho mọi người, phát huy đạo lý của Phật giáo và dân tộc. Qua nhiều năm gắn bó và tích cực với các công tác Phật sự, xã hội, Thầy đã được UBTUMT tặng huân chương ‘Vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc’ vào năm 2003. Vào tháng 5 năm 2004, Thầy được Ban trị sự GHPGTTTH giới thiệu Đại biểu HĐND Tỉnh và rất được Tăng Ni phật tử và đồng bào nhân dân tín nhiệm.
III. Viên tịch:
Sau thời gian lo xây dựng trai đường, Tăng xá, sửa sang chốn Tổ và lo tang lễ pháp đệ là HT Thích Từ Phong, bệnh tình của Thầy tái phát, mặc dù được các y bác sĩ và hàng đệ tử tận tâm chữa trị nhưng như biết trước giờ sắp ra đi, Thầy nhiếp tâm trong niềm hỷ xả, di chúc dặn dò pháp tử, sắp xếp công việc chốn Tổ và hậu sự của mẹ hiền. Thầy đã xả báo an tường vào lúc 7h30 ngày mồng 5 tháng 12 năm Giáp thân (tức ngày 14. 1. 2005) tại chùa Tây Thiên, thọ 59 tuổi đời, 35 tuổi đạo.
Thế là hóa duyên đã mãn, sự đến và đi của Bậc xuất trần Thượng sĩ như cánh nhạn giữa trời không, như bóng trăng in đáy nước. Thầy đã về với cảnh giới Niết bàn vô tung bất diệt nhưng công đức và đạo hạnh của Thầy vẫn còn sống mãi trong ký ức và tâm tư của hàng Tăng Ni, Phật tử.
Khoảnh khắc đã biến thành thiên thu giã biệt, nhưng chúng con luôn cảm giác rằng Thầy vẫn luôn gần gũi nâng đỡ, chở che, cảnh tỉnh, soi đường dẫn bước cho chúng con đi. Có những vị Thầy giáo hóa, thức tỉnh chúng sanh bằng thân tướng trang nghiêm, có vị bằng lời pháp khéo thuyết, có vị bằng âm thanh tán tụng, có vị bằng vô ngại biện tài, có vị bằng giới hạnh luật nghi và ở Thầy chúng con đã học được rất nhiều pháp vị từ nơi thân giáo, khẩu giáo của Thầy. Suốt cả cuộc đời hành đạo mấy mươi năm, Thầy đã kế thừa đạo mạch Phật pháp, giữ gìn Tổ ấn Tông phong, xiển dương chánh pháp và tiếp nối các vị liệt Tổ, liệt đức. làm rạng danh Thích tử. Nơi chốn Tịnh cảnh Lạc bang mong Thầy sớm hội nhập Ta bà, phân thân vô số để tiếp tục hóa độ chúng sanh và hộ trì cho chúng con được đầy đủ niềm tin và sức mạnh để tu học và tiếp tục sứ mạng sống có ích cho đạo có lợi cho đời, xứng đáng là những học trò, đệ tử của Thầy.
Thầy là người cho con ánh sáng
Đạo nhiệm mầu và hạnh đức Như Lai
Bao năm qua dòng đời con xuôi ngược
Ân nghĩa Thầy ghi nhớ mãi không phai.
Nam mô Lâm Tế chánh tông Tứ thập tứ thế, Tây Thiên Tổ đình Tọa Chủ, húy Thượng Nguyên hạ Không, tự Từ Phương Hòa Thượng Giác linh.
Q.N