Chìa khoá để nắm được tri thức toàn diện ấy nằm ở đâu ?
Trả lời ba câu hỏi về : Phật Pháp Tăng là gì, cả ba lần TNT đều nói:
“Hiểu theo lối trước lại chẳng phải”.
Hãy thử bóc từng lớp câu trả lời này :
1b : Tiền đề:
Những vị tăng sinh đặt câu hỏi này có thể có 3 loại người:
– đối với người sơ học : người ấy chờ đợi một lời dạy có nội dung đầy ắp về Phật như lịch sử Đức Phật và 32 tướng tốt của Phật, những lời dạy, 3 tạng Kinh, Đại tạng kinh,…
– những người đã nghiên cứu ít nhiều, đã “học” không ít Phật Pháp Tăng trong ba vạn sáu nghìn pháp môn được truyền bá.
– những người đã thấu triệt, “hiểu” hết giáo lý Phật nhưng muốn nắm yếu tính cuối cùng của giáo lý ấy.
Cả 3 loại Thiền sinh đều muốn biết “Phật là gì” hay nói cách khác đi muốn biết yếu tính của CHÂN NHƯ tuyệt đối qua sự tu học về Phật Pháp Tăng.
2b: Đối tượng của học: là tam tạng kinh điển của giáo lý và giả thuyết tất cả những tài liệu về giáo lý đến thời diểm buổi giảng chùa Sùng Nghiêm.
3b: Phương pháp học và thực hành: trước hết là “theo lối trước“, dựa vào truyền thống tu học của những người đi trườc và vào giờ điểm bài giảng, Thiền sinh và các bậc thức giả đang chờ đợi những lời dạy của Trần Nhân Tông. Đến thế kỷ thứ 13, Phật học đã thâm nhập vào VN gần 13 thế kỷ. Những trường phái khác nhau trong hai giáo phái Tiểu thừa và Đại thừa đều được truyền bá đến đất Việt. Những nhà tu học đời Trần đối diện với một gia tài Phật học đa dạng từ những trường phái của tiểu thừa qua Không Luận, Duy Thức Luận, Hoa Nghiêm, Thiên Thai v.v.
4b: Phủ định “chẳng phải” hay “Phi” :
Đứng trước một truyền thống tư tưởng Phật học như thế, Trần Nhân Tông lấy quan điểm nào để giảng “Phật” cho tất cả ba hạng người trên có thể hiểu được một cách tuyệt đối thực thể “Phật” trọn vẹn nhất ? Trần Nhân Tông trả lời bằng một công án đã được xử dụng trong Thiền học : “Hiểu theo lối trước lại “CHẲNG PHẢI !””.
Thoạt tiên tưởng như chẳng có gì đặc biệt trong câu trả lời này ngoài ý nghĩa phủ định tất cả những tri thức huân tập được của người hỏi, như một cuộc cách mạng ! Thiền sinh đã từng được thao luyện với tư tưởng phản nghịch, vô nghiã, lạc đề mà các Thiền sư thường gài bẫy cho chính người tu học như một trắc nghiệm tri thức như thế. Phải chăng ở đây Trần Nhân Tông lại theo những điển hình cũ để phát biểu câu trả lời này ?
Câu tiêu biểu của phủ định toàn diện của phái Không luận của Long Thọ Bồ tát thường được nhắc đến như một kết luận tư tưởng về tánh Không : “Trong 49 năm giảng Pháp, Đức Phật đã KHÔNG NÓI một lời nào !” (viêt lớn của người viết). Bồ Đề Đạt Ma đã trả lời câu hỏi của Lương Vũ Đế “ai là người đứng trước mặt ta” bằng “Không biết !”.
Thiền sư Triều Châu (926-993) của Thiền học Trung hoa nổi tiếng với công án MU (VÔ) đã là nền tảng cho Thiền học Nhật Bản : “Hỏi : con chó có Phật tánh hay không ?” Triều Châu đã trả lời : “VÔ !” như một tiếng sấm.
Không định nghiã, không giải thích, không tranh luận, Thiền sinh mang trong Tâm một chữ “vô” như thế suốt cả đời người, trăn trở qua mấy thế kỷ, đã trở thành một thứ “kinh lòng” hằng đọc.
Nhưng vấn đề của Thiền học là không được “mang” chữ ấy trên vai như một gánh nặng, dù nó chỉ là “không”. Nếu không thì “KHÔNG” sẽ là một cản trở cho giác ngộ.
Trước khi tìm hiểu phương pháp phủ định của Trần Nhân Tông trong “chẳng phải” có lẻ cần duyệt qua sơ lược về ý niệm “không” qua ba ví dụ điển hình vừa nêu ra ở trên.
5b – không nói, không biết, không nghĩ và “VÔ” :
Triển khai lời dạy của Đức Phật về ý niệm Sunyata (rỗng không) trong ý nghĩa nhận thức sự vật như thật trong thể tính “không bản thể” hay “vô ngã” các thiền sư đã xử dụng sự phủ định như một “đà” giải phóng mọi chấp ngã, trước hết là trên bình diện ngôn ngữ (không nói, Long Thọ , không biết, Bồ Đề Đạt ma) và không tư duy (Huệ Năng) đồng thời thực hiện sự phủ định tuyệt đối trên bình diện thể tính (Eⴲe, Sein, Existence) như là âm “VÔ” (Triều Châu) mênh mông. Sự phủ định này thoạt tiên thường dẫn đến ngộ nhận cho rằng lý thuyết tính Không hàm chứa khái niệm hư vô tiêu cực, không những trong triết học mà còn trong quan niệm thông thường. Hiện nay những ngộ nhận như thế đã được giải hoặc từ góc độ nghiên cứu tri thức luận và hữu thể luận dựa vào những khảo sát ngữ nghĩa học cũng như cấu trúc ngữ cú văn phạm và mệnh đề học của những kinh điển đại thừa.
Trong ngôn ngữ Phật giáo nói riêng hay ngôn ngữ thông thường nói chung, ta có 3 từ diễn tả sự phủ định : “vô” (như vô vi, vô ngã, vô niệm, vô thường)), “bất” ( như “bất sanh bất diệc bất cấu bất tịnh” trong Bát nhã ba la mật kinh) và “phi” (diệc phi đài, “thân lớn phi thân lớn mới thật là thân lớn”, kinh Kim Cương) cùng với “yết đế” (băng qua, trong Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh)). Trong lúc “vô” hay “bất” thường diễn tả một trạng thái đối ngược với trạng thái hay sự vật hiện hữu, và như thế thuộc bình diện tĩnh, “phi” và “yết đế” diễn tả động tác phủ định trong tích cách linh hoạt của Tâm không dừng lại nơi một điểm nào (vô trú) để chấp trước có thể phát sanh và bị đóng cứng.
Trong quyển “Kinh Kim Cương” TN Trí Quang nhận xét về chữ “phi” như sau :…“phát tâm, trú tâm và hàng tâm là vô trú bát nhã, được diễn đạt bằng chữ Phi".
Sánh với chữ Không của toàn bộ Bát nhã, chữ Vượt qua (yết đế) của Bát nhã tâm kinh, thì chữ Phi của kinh Kim Cương hoạt bát hơn nhiều lắm.
Chữ Phi được thực hành bằng luận chứng sơ khởi là bài chỉnh cú cuối cùng của Kim cương, quán sát các pháp hữu vi như mộng ảo bào ảnh. Nhưng chữ phi cũng có thể thực hành từ sơ khởi đến chung cục theo phong cách Thiền tông.
Theo phong cách ấy thì thấy gì cũng phi cả. Nhất là phi cả cái Phi. Phi thì không vướng mắc vào đâu cả, nhất là vướng mắc vào cuồng phóng, phóng khí, tự nhiên, nhác, nhát, thoái chuyển, lệch hướng. Phi là làm cho tâm trí và tâm hồn rỗng không như không gian mà phong phú như hoa lá. Mình với cuộc đời phi tức mà cũng phi lý, siêu nhiên cũng như tục lụy đều không vướng mắc” (Kinh Kim cương, Trí Quang dịch, bản Mai Lan Lệ Ấn, Muenchen, trang 148, 149)
Chính thể cách của chữ Phi như một sức mạnh giải phóng mọi vướng mắc chấp trước, hay nói khác hơn , như hành trạng phát tâm giải phóng vô minh, mà Trần Nhân Tông đã lấy làm phương pháp tri thức luận trong bài giảng tại Sùng Nghiêm. Nhưng Trần Nhân Tông sẽ không là Điều Ngự Giác hoàng nếu phủ định “chẳng phải” tức Phi hoàn toàn là một sự lặp lại của phương pháp đời trước, mặc dù chính sự lập lại này không phải là một sự lặp lại, bởi chính tự nó là “PHI”, là “chẳng phải” !
Trong tương quan với phương pháp luận “lối trước”, quá trình phủ định trong “hiểu theo lối trước lại chẳng phải” nên được hiểu như là một bước nhảy gấp đôi : phủ định rốt ráo và VƯỢT.
6b. “Rốt ráo” để “vượt”
Phủ định rốt ráo có nghiã là “tám chữ mở toang trăn trối hết, chẳng còn gì nữa để trình ông” (Trần Nhân Tông, bài giảng tại chùa Sùng Nghiêm, đã dẫn)
Để “hiểu“ Phật làgì trước hết phải học rốt ráo tất cả lời dạy của Phật và những lý thuyết về Phật từ trước đến nay, phải mở toang kho chữ của cả 8 vạn bốn nghìn phẩm môn, học hết đọc hết đến không còn một chữ. Nhưng tri thức con người nếu chỉ là kho chứa kiến thức cũng chẳng khác chi con kiến bò trong chén, vẫn chỉ luẩn quẩn trong tháp ngà tư duy.
Đối với I. Kant tri thức chỉ có ý nghĩa khi tri thức ấy bao hàm kinh nghiệm về thực tại ở ngoài tư duy (transzendent) mà Kant gọi là tri thức tổng hợp. Mọi phạm trù hay phán đóan tổng hợp tiên thiên chỉ có giá trị khách quan và phổ quát trong khả thể áp dụng chúng vào đối tượng khách quan ngoại tại. Khảo cứu những điều kiện khả thể của những phán đoán hay tri thức tổng hợp này là công trình của “phê bình lý trí thuần túy” mà Kant còn gọi là sự triển khai siêu việt (transzendentale Eroeterung, exposée transzendentale). Đối với siêu hình học cổ điển “triển khai siêu việt” này nêu lên giới hạn của những lý thuyết duy lý, duy nghiệm và duy thực thô sơ cũng như duy nghiệm hoài nghi đang trở thành những con đường mòn tư duy, không theo kịp với đà tiến của khoa học thời Kant. Không những thế, khi khảo sát cơ cấu của tri thức và khả năng lĩnh hội của trí tuệ, Kant khám phá tính chất nghịch lý (Antinomien) ngay chính trong những ý tưởng (Ideen) siêu hình do lý trí suy diễn từ kinh nghiệm thực tại nhưng lại lià xa thế giới thực tại. Siêu hình học qua tiến trình siêu việt của phê bình chỉ có thể tồn tại xứng đáng như là một khoa học siêu lý thuyết (Metatheorie) nhằm hiểu rõ cấu trúc, khả thể và giới hạn của mọi thể loại tri thức để xây dựng một thể loại tư duy mới thích hợp với thao thức chân lý của thời đại. Đặt vấn đề về những điều kiện có thể hình thành tri thức siêu việt là đồng thời chuẩn bị hay phát triển sự khai phóng hay sức “vượt” trong khả năng lý hội và phủ định của ý thức phê bình. Siêu lý thuyết của Kant hay triết học siêu việt vì thế bao hàm tri thức luận và phương pháp luận như điều kiện khả thể để huân tập tri thức khách quan đúng thật trên quan điểm của ý thức siêu việt.
Trong một chừng mực tương tự nào đó với công cuộc khảo sát của Kant trên bình diện tri thức luận, – với tất cả dè dặt của ngưòi viết – Đức Phật đã từ chối không trả lời những câu hỏi thuộc lãnh vực siêu hình học, chính vì Phật thấu rõ giới hạn của toàn diện ngôn ngữ diễn đạt tri thức khi chạm trán với ý niệm tuyệt đối. Nhưng – và đây chính là điểm nổi bật của bậc Giác ngộ sở tri cái nhìn nhất quán khác với Kant – trong lúc “khai triển siêu việt” của Kant vẫn còn nằm trong giới hạn của khẳng định bản thể và bản ngã (Affirmation, Bejahung der Substanz und des Selbst), có nghiã là vẫn còn nằm trong giới hạn của tư duy luận lý và từ đó ngăn cách nhị nguyên giữa tư duy (Denken, thinking) và thể tính hiện hữu (Sein, Being)), giữa lý thuyết và thực hành càng bị đào sâu, Đức Phật đã khai thị chánh kiến chân thật về vô ngã và vô thường, bởi vì chính phương pháp nhìn sự vật theo yếu tính tính không này cho phép con người “rốt ráo” phá vỡ sự đóng cứng của tri thức bên bờ của sắc tướng của :
A = A , để từ quán chiếu siêu việt vượt ra ngoài giới hạn nội hàm của A nhận ra rằng :
A = – A hay phi A , từ đó thấy A trong sự thể nhập nhất quán toàn diện của
A – A…A = A
( Phi A có nghiã là không phải A (–A) và khác với A = B hay C…, ví dụ : Phật không phải Phật và khác với Ma Vương = B. Theo đó muốn hiểu A toàn diện, cần phải biết ngoại hàm của A như các lãnh vực tương quan với A (B) hay ở ngoài A (C), từ đó kiện toàn tri thức tổng hợp, trong lúc A = A chỉ là một sự lặp lại theo nguyên tắc luận lý đồng nhất, hầu như không ích lợi cho tri thức tổng hợp ).
Thật sự câu trả lời “Phật là gì” đã nằm sẵn trong kinh Kim Cương :
“Có thể hay không
nhìn thấy Như lai
bằng cái sắc thân
toàn hảo đặc tướng ?
Không, bạch Thế tôn
không nên nhìn Ngài
bằng cái sắc thân
toàn hảo đặc tướng.
Tại sao như vậy
vì cái sắc thân
toàn hảo đặc tướng
thì Thế tôn nói
là phi sắc thân
toàn hảo đặc tướng,
đó là lý do
tại sao Thế tôn
nói là sắc thân
toàn hảo đặc tướng.”
(Kinh Kim Cương, trang 82, đọc tiếp trang 83, Trí Quang dịch, bản Mai Lan Lệ Ấn, Muenchen)
Theo đó “Phật là phi Phật mới là Phật” sẽ là câu trả lời thích hợp với kinh điển của lối trước. Nhưng đối với Trần Nhân Tông nếu “theo lối trước” như thường hiểu đọc là một sự khai tử diệu dụng “PHI”, là đóng khung PHI trong lồng kính của tư duy về “không” và cả toàn bộ nội dung kinh điển về Phật, lời dạy của Phật và chính Đức Phật sẽ chỉ là những lời tụng đọc thuộc lòng vô nghiã có thể cản trở giác ngộ chân lý giải thoát.
Cho nên tuyên ngôn “hiểu theo lối trước là chẳng phải” hay “Phật là Phi Phật mới là Phật” cũng chẳng phải“ là một phương thức giải phóng không ngừng sức mạnh siêu việt của PHI, và chính trong nhịp chuyển hướng này Như lai trong từng khoảnh khắc hiện tại xuất hiện toàn diện như là CHÂN NHƯ không đối đãi.
Phương thức giải phóng siêu việt này đã được Chi tsang diễn tả trong sơ đồ về hai chân lý trên ba tầng bình diện cho thấy trí tuệ siêu việt là một tĩnh thức không ngừng trong sự hội nhập thể tính tuyệt đối ngay chính trong tương quan đối đãi nhị nguyên :
Chân lý tương đối Chân lý tuyệt đối
1. A – A
2. A v –A – (A v –A)
3. (A v – A) v (- (A v – A)) – ((A v-A) v (- A v- A))
(theo The Buđhist teaching of Totality cua Garma C. C. Chang, tr. 154)
Sự phủ định có thể tiếp tục trong tính linh hoạt của PHI đến vô cùng như một mũi tên sáng xuyên suốt hai cực chân lý phá tan mọi vọng tưởng và chấp trước, bao lâu ngôn ngữ con người còn nằm trong cơ cấu nhị nguyên.
Có thể nói Trần Nhân Tông đã nắm được và triển khai một cách ưu việt yếu tính của lời dạy Đức Phật và của Thiền học trong sự linh hoạt hoá diệu dụng của phương pháp tri thức luận bằng biện chứng siêu việt của “chẳng phải”, phát triển tâm thức sẵn sàng “vượt”, rời bỏ lãnh vực tư duy lặp lại khô cứng – mà đó là nguồn gốc của sự trói buộc, chấp trước, giáo điều, để thực hiện sự đồng nhất CHÂN NHƯ hay thực chứng giải thoát, hay nói cách khác hành giả hội tụ đủ điều kiện phát tâm rời bỏ giáo điều (dù bản chất của giáo điều ấy là không giáo điều) để bước vào hành đạo.
(Còn nữa)
T.K.L