Trang chủ Phật học Vay trả trả vay-tâm lý học siêu hình của Phật giáo (tiếp...

Vay trả trả vay-tâm lý học siêu hình của Phật giáo (tiếp theo và hết)

132
0

“Thân trung ấm” là một trong những danh xưng để trỏ cho năng-hoạt-vị của thức A-lại-gia. Việc đi thọ thân, dĩ nhiên tuỳ vào nghiệp đã tạo trong suốt thời sinh tiền, nặng hay nhẹ mà được thọ sanh trong tứ sanh, lục đạo; và do nghiệp khác nhau, cho nên việc thọ thân cũng khác nhau, mà kết quả thọ thân cho thấy rằng người đẹp đẻ, kẻ thô xấu, người giàu sang, kẻ bất hạnh, người đầy đủ căn cơ, kẻ đui điếc câm ngọng. v, v…(1)  Đây là trỏ những loài hữu tình còn bị lưu chuyển trong vòng sinh-diệt-và-tái-sanh. “Thân trung ấm” là bước đầu lìa thân cũ tìm thân mới; hay trả thân cũ, để vay thân mới. Trong mối tương hệ thiêng liêng giữa người còn và kẻ mất, người còn (tạng chủ) vì muốn cho kẻ mất (hương linh) của mình sớm siêu thoát, cho nên đã thỉnh chư Tăng Ni làm lễ “Kỳ siêu”, rồi kế đó cúng tuần; do đó, có thông lệ ‘cúng thất’; từ tuần thứ nhất đến cuối tuần thứ bảy được gọi là ‘lễ chung thất’, mà nó thường được tổ chức lớn và trọng thể hơn. Trải qua 49 ngày, thần thức kia tuỳ vào nghiệp dẫn hoặc nhanh hay chậm, sớm hay muộn, phải đi đầu thai hoặc thọ thân khác ở cõi khác; và cũng tuỳ thuộc vào một phần công đức hồi hướng của người còn đối với kẻ mất, mà nghiệp của hương linh giảm và được sanh Thiên, như ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ. Nếu trong 49 ngày mà thần thức chưa được siêu thoát; vì chưa đủ duyên để đi thọ thân mới khác, thì nó vẫn tiếp tục lai vãng để tìm nơi đầu thai. Như Nhiếp Luận nói: “Khô tang do năng dẫn, nhậm vận hậu diệt cố(2).   Thế nhưng, sau 49 ngày, mà thần thức vẫn chưa đầu thai thì sự kiện này rất hiếm xảy ra. Tựu trung, “thân trung ấm” cũng là một trong những tên gọi của thức A-lại-gia.

Nói “lai tiên” có nghĩa là đến trước nhất, đi trước/đầu tiên. Giai đoạn này là chỉ cho “thân trung ấm” sau khi đã bỏ thân cũ và nhận thân mới, mà tuỳ vào nghiệp cũ dẫn dắt hoặc tái sinh trong tứ sanh lục đạo. “Thân trung ấm” ngay khi lìa thân, nó được gọi là “thức” hoặc “thần thức”, mà thế gian gọi là ‘thần hồn’ (3), hay ‘hương hồn’, Phật giáo gọi là ‘hương linh’, ‘chơn linh’, hay ‘giác linh’, chứ không gọi là ‘linh hồn’.   Những giây phút ban đầu khi thần thức tìm được nơi để thọ thân mới thì ngay thời gian ấy là “lai tiên”, đi đến trước; còn thần thức bấy giờ hoà nhập vào mẫu thai, tuỳ vào nghiệp mà thọ thân khác với hình dáng mới và tái sanh vào một cõi khác.

Tuỳ nghiệp dẫn cho đến khi nào thần thức tìm được nơi để đầu thai, thì bấy giờ phải hội đủ ba yếu tố: tinh cha, huyết mẹ và thần thức. Cả ba đều có mặt và cùng hoà hợp, tức có khả năng phát triển thành thân người; trong thời gian này nó được gọi là ‘hoà hợp thức’ (hay Kalala thức). “Hoà hợp thức” có nguồn gốc từ chữ Kalala và được phiên âm là ‘Yết-la-lam’. Nhiếp Đại thừa luận cũng gọi là ‘Yết-la-lam’; còn śūraṅgama-sūtra (kinh Lăng Nghiêm) gọi nó là Yết-la-lam xu-bồ-đàm (4).   Nhiếp Luận cho rằng “Khi ý thức ô nhiễm trong thân trung hữu diệt, thì tướng của thức Yết-la-lam ở trong thai mẹ mới hoà hợp” (5).   ‘Yết-la-lam’ là sự tạp nhiễm, tức là trỏ sự hoà hợp của tinh cha (bach) và huyết mẹ (xích), trạng thái như ‘ngưng tô’ (sự hoà hợp và đông đặc), là tên gọi của nó suốt 7 ngày đầu trong thai (6) .  “Kalala” cũng còn được gọi là Ca-la-la, Yết-thích-lam, v. v… đều có nghĩa là phôi thai. Yết-la-lam, Tàu dịch ý, là si ngại, hoà hơp, tạp uế, bào thai. Có lẽ vì những thuật ngữ này mà chúng ta có thể thấy trong Kīrtigarbha sūtra (kinh Địa Tạng) có đoạn đã mô tả về các địa ngục, như: địa ngục Kalala, địa ngục Ababa, địa ngục Atratra, địa ngục Abàbà… Phải chăng do ba duyên tố hoà hợp này mà hình dạng của nó như ‘huyết đọng’, như đã nói kinh Báo Ân, “tháng thứ nhất như huyết đọng” (?). “Hoà hợp thức” là một trong những danh xưng của thức A-lại-gia và cũng là thời kỳ đầu của phôi thai.

Khi đủ duyên để thức Yết-la-lam (Hoà hợp thức) này tiếp tục phát triển, thì bấy giờ nó được gọi là ‘tương tục thức’. Giai đoạn này là từ khi thức vào thai, hoà với tinh huyết cha mẹ, trải qua chừng hai tháng, thì nó có hình dạng như ván sữa; như kinh Báo Ân nói: “tháng thứ hai như ván sữa”. “Tương tục thức” cũng được gọi là Yết-la-lam (Kalala). Khi nó có đủ khả năng phát triển thành danh sắc, thì bấy giờ nó được gọi là “thân trung hữu”. “Tương tục thức” là một trong những danh xưng của A-lại-gia, thời kỳ đầu của phôi thai; còn “thân trung hữu” có khả năng trở thành thai nhi. Thế nhưng, không phải lúc nào ‘thức’, hoặc ‘thần thức’ vào thai mẹ cũng thành thai nhi, mà nó còn đòi hỏi các yếu tố khác. Như đoạn vấn đáp giữa đức Thế Tôn và tôn giả A-nan mô tả:

Này A-nan, nhơn thức có danh sắc là nghĩa thế nào? Là giả sử thức không nhập vào thai mẹ thì có danh sắc không? A-nan đáp:

+ Dạ không. Bạch Thế Tôn.

– Nếu thức nhập vào thai mẹ nhưng không xuất thai thì liệu có danh sắc không?

+ Dạ thưa, không.

– Nếu thức ra khỏi thai mà đứa hài nhi hư hỏng (bị sẩy thai) thì liệu danh sắc có tăng trưởng không?

+ Dạ thưa, không.

– Này A-nan, nếu không có thức thì có danh sắc không?

+ Dạ không. Bạch Thế Tôn.

– Thế nên, này A-nan, vì lẽ đó mà Ta biết danh sắc do thức, nhân nơi thức mà có danh sắc. Nghĩa Ta nói là ở đó”(7)

Đoạn văn này cho thấy rằng chỉ khi nào thức vào thai mẹ và ra khỏi thai mẹ mà hội đủ các duyên khác thì mới thành thai nhi; trái lại, thì không thể.

Sở dĩ nhấn mạnh đến ‘thức’ và ‘danh sắc’ ở đây là cứ vào 12 nhân duyên để nói, chứ riêng ‘danh sắc’ đã đủ hai yếu tố quan trọng: danh/tâm (tinh thần) và sắc/vật (vật chất); vì con người gồm có hai phần: vật chất và tinh thần. Vả lại, cả danh và sắc hàm tàng năm uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn; trong đó, sắc uẩn thuộc về vật chất, bốn uẩn còn lại thuộc về danh/tâm (tinh thần). Năm uẩn này là năm sự chứa nhóm, tích tụ, tổng hợp tất cả các pháp (8).   Bởi vì năm uẩn này là nền tảng, là cơ sở có thể phát sanh ra 12 xứ (6 căn và 6 trần) và 18 giới (6 căn, 6 trần và 6 thức); vì năm uẩn đầy đủ cả nội năm uẩn và ngoại năm uẩn, tức là sự bao quát cả con người và thế giới. Nếu A-lại-gia dung chứa toàn thể nhân sinh và vũ trụ, thế và xuất thế gian, thì năm uẩn này cũng là hình ảnh thu nhỏ của con người và toàn thể vũ trụ. Ở đây thông qua phần giải thích chi tiết năm uẩn và tiếp tục tìm hiểu đến ‘năng-hoạt-vị’ của thức chuyển.

Khi phôi thai theo thời gian biến thành danh sắc và thành thai nhi, thì bản năng của thức có mặt. Bản năng này cũng như khi thai nhi ra khỏi bào thai. Đứa trẻ từ khi lọt lòng cho đến lúc bắt đầu biết bò lết; dù chưa tự đi được, mà hệ thống thức đã có mặt, dù chưa có sự phân biệt; vì hệ thống thức đang còn trong tình trạng tiềm ẩn. Mọi thao tác của đứa hài nhi ấy đều là những phản xạ vô điều kiện, vô phân biệt, hệ thống thức đang ngủ ngầm bên trong, những hạt giống thức đang tiềm ẩn nơi tạng thức A-lại-gia.

Lúc đứa trẻ biết phân biệt tức là lúc hệ thống thức đang đi vào hoạt động. Hệ thống thức của đứa trẻ này biết phân biệt mẹ, vú nuôi, người đỡ đầu bồng bế. Từ lúc nhỏ cho đến lúc khoảng 5 hoặc 6 tuổi thì hệ thống thức trong thời kỳ thuần hoá, vô tư, thơ ngây. Trước kia, Thái Tử Tất-đạt-đa vừa mới 6, 7 tuổi đã được vua cha Suddhodhana (vua Tịnh-phạn) cho đi dự “Lễ Cày”, mà lúc ấy Ngài ngồi dưới bóng cây Tất-bát-la để xem quang cảnh trong buổi lễ ấy. Đây cũng là chìa khoá chính thức cho Ngài đi vào Sơ thiền, sau sự thất vọng của 6 năm tu khổ hạnh, mà chính Ngài đã từng tuyên bố rằng ‘trong quá khứ, nếu có chư Phật tu khổ hạnh, thì cũng không vượt quá sự khổ hạnh mà Ngài đã hành’; do đó, Ngài tu tập quán chiếu, rồi nhớ lại tuổi thơ thủa xưa ngồi dưới cây Tất-bát-la…. Cũng từ đây, Ngài đi vào Nhị, Tam, Tứ thiền nơi cội Bồ-đề ở Bodhgaya (Bồ-đề Đạo Tràng) thuộc bang Bihar của Ấn độ hiện nay.

Nhìn chung, A-lại-gia thức thường được gọi là: “tâm, ý và thức”; Nhiếp Luận cũng gọi như vậy. Cả ba thuật ngữ này dị danh nhưng đồng nghĩa, chỉ có khác nhau ở địa vị và chức năng cũng như sự hoạt dụng xuyên qua tính chất và cường độ, thô hay tế, liệt hay thắng của nó mà thôi. Nhưng những danh xưng trên chỉ hạn cuộc từ lúc thần thức từ bỏ thân cũ và thọ thân mới cho đến lúc 5 hoặc 6 tuổi. Ngoài ra, A-lại-gia thức còn được gọi nhiều tên khác nhau (9),   đó là lúc đứa trẻ trở thành tuổi thanh thiếu niên, với những sự huân tập hý luận hay tập khí khác nhau, như biết phân biệt tình cảm, thân sơ…. A-lại-gia thức ở phàm phu được gọi là “kiết sanh thức”, hay saṃsāra-koṭinisthaskandha (cùng sanh tử uẩn). Sự đam mê A-lại-gia và ý niệm luân hồi của hàng phàm phu được đức Phật mô tả trong kinh Tăng Nhất A-hàm như sau: “Chúng sanh ở đời đam mê A-lại-gia, ưa thích A-lại-gia, hân hoan A-lại-gia, vui vẻ A-lại-gia. Vì để đoạn trừ A-lại-gia như thế, cho nên khi đức Thế Tôn thuyết chánh pháp, phải tỏ lòng cung kính nhiếp niệm, an trú, tìm hiểu, tâm tuỳ thuận pháp và tuỳ pháp hành”. Vì lý do đó, Saddharmapuṇḍrīkasūtra (kinh Pháp Hoa) dạy: “Như Lai xuất hiện ở đời chỉ vì một nhân duyên duy nhất là khai thị cho chúng sanh chứng ngộ và thể nhập tri kiến của Phật”.

Trên tất cả, ngoài những danh xưng như tâm, ý, thức và A-đà-na, chúng ta có thể ngầm mường tượng một tiến trình phát triển kể từ lúc “khứ thệ” với thân trung ấm, thần thức, cho đến khi “lai tiên”, tức thức chuyển và hợp thành hoà hợp thức, tương tục thức, thân trung hữu, cũng là lúc nó trở thành danh sắc, thành thai nhi, hoặc lúc thân năm uẩn ra khỏi mẫu thai; đây là một tiến trình xảy ra liên tục. Nhưng vì hàng phàm phu và Nhị thừa không thể thấy được, ngoại trừ hàng Bồ-tát thượng căn thượng trí mới có thể thấy và am tường. Vậy, sự chuyển biến của thức từ lúc “khứ thệ” tiếp tục khả năng tác thành theo từng địa vị và danh xưng của nó, cho đến khi “lai tiên” và sau khi ra khỏi mẫu thai, thai nhi vẫn duy trì và phát triển như một con người, tức là “tác chủ ông”, là một tiến trình năng-dụng-vị thức thuộc lãnh vực tâm lý mang tính siêu hình. Còn đối với những tên gọi “tâm, ý và thức” của thức A-lại-gia, đôi khi nó được gọi là “tâm”, có khi nó được gọi là “ý”, như hai bài kệ đầu của Dharmapadasūtra (kinh Pháp Cú) nói: “Tâm/ý dẫn đầu các pháp, tâm/ý làm chủ tâm/ý tạo. Nếu với tâm/ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe chân vật kéo”. Ngược lại, “Tâm/ý dẫn đầu các pháp, tâm/ý làm chủ tâm/ý tạo. Nếu với ý thanh tịnh, nói lên hay hành động, an lạc bước theo sau, như bóng không rời hình”. Tâm hoặc ý nếu bất như lý tác ý, thì trong từng niệm trú, trong từng sát-na đều có chuyên tải chủng tử ác, mà nó là mầm móng của sự luân hồi; còn chủng tử thiện là nền tảng dẫn đến sự giải thoát. Khi đã am tường năng-dụng-vị thức thuộc phạm trù tâm lý học mang tính siêu hình của Phật giáo, thì mỗi chúng ta phải tự sách tấn, trong từng niệm phải đúng như lý tác ý, nhằm triệt tiêu mầm móng và gốc rễ của nhân sanh tử luân hồi, vậy lo gì phải đi tìm Niết-bàn ở đâu; vì śūraṅgama-sūtra (kinh Lăng Nghiêm) dạy: “thập phương Bạc-già-phạm, nhất lộ Niết-bàn môn”(10). 

T. K. Đ

Chú Thích

1. Tất cả đều tuỳ vào hạnh nghiệp của con người, mà đức Thế Tôn đã kể lại, chúng ta có thể thấy rải rác trong các kinh; sau khi Ngài chứng Thiên nhãn, một trong Tam minh (Thiên nhãn, Túc mạng và Lậu tận minh). 
2. Sđd. , tr. 135b3. Tạm dịch: “Thân khô chết, vẫn còn năng dẫn, đợi hợp thời, sau mới diệt vong”. Thân đã khô cằn mà thần thức vẫn còn vãng lai. Khi thần thức đã thật sự đi đầu thai và thọ thân khác; hoặc vay mượn hình hài mới khác, thì đó là lúc hợp thời, tức là lúc thân dần dần tan rã, tứ đại trở về với nguồn gốc của tứ đại. 
3. Thần thức/hồn cũng là một trong những tên gọi của thức A-lại-gia. Phật giáo ít khi gọi thần thức là ‘linh hồn; như là Suzuki; vì ông ta mượn thuật ngữ ‘linh hồn’ (soul) để giảng cho những sinh viên theo đạo: Thiên chúa, Cơ Đốc, hoặc Tin Lành, cốt để giúp họ dễ hiểu giáo pháp Phật đà. ‘Linh hồn’ là thuật ngữ phổ biến của Thiên chúa giáo. 
4. Đại Chính 945, tr. 120b1. 
5. Đại Chính 1594, tr. 135c28-9. 
6. Thái Hư Đại Sư (Sách mới), Tập 8, tr. 563. 
7. Kinh Trường A-hàm, quyển 1, Nxb Tôn Giáo, Đại Tạng Kinh VN, 2. 000, tr. 482-3; cũng xem Kinh Trường Bộ, quyển 1, Viện Nghiên Cứu Phật Học VN, Đại Tạng Kinh VN, 1991, tr. 523-4. 
8. Xem chi tiết HT. Thích Thiện Siêu, Ngũ Uẩn Vô Ngã, Nxb Tôn giáo, Hà-nội, 1999, tr. 51-152. 
9. Ngoài những tên gọi vừa nêu, A-lại-gia còn rất nhiều danh xưng khác, như: Căn bản thức, Cùng sanh tử uẩn, Hữu phần thức, Chủng tử thức, Sở tri y, Dị thục thức, Vô cấu thức, Chơn Như, Phật tánh và Như Lai tạng, nhưng ở đây xin khỏi giải thích chi tiết rườm rà. 
10. Đại Chính 945, tr. 124c29.

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here