Trang chủ Nghiên cứu – Trao đổi Thư viết từ Hà Nội

Thư viết từ Hà Nội

205
0

 

Kính gửi Ban biên tập Tuần báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.

Chúng tôi ở xa, đọc báo Văn nghệ TPHCM không đều. Tuy nhiên gần đây qua một số bài có tính khảo cứu về lịch sử và văn hóa, chúng tôi rất tâm đắc. Thực tình không biết người viết chuyên sâu tới mức nào nhưng bài viết dựa trên những căn cứ lịch sử hiển nhiên, có tâm, có tình, thuyết phục và được nhiều bạn đọc hoan nghênh.

Một tờ báo Văn lại viết những vấn đề về Sử không phải là một việc làm tréo ngoe vì người viết văn được trang bị những kiến thức Sử và Triết càng sâu thì ngòi bút càng vững vàng chín chắn. Trong khi nhiều báo chuyên đề Văn hóa xã hội và Lịch sử nếu không làm ngơ thì lại có những bài viết mập mờ lẫn lộn trắng đen, thậm chí trái chiều lịch sử nên những bài của qúy báo là rất cần thiết. Vả chăng, bảo vệ sự chân thực lịch sử là trách nhiệm công dân, nhất là với người cầm bút.

Nhân bài viết về chữ Quốc ngữ với người sáng lập ra nó của bạn Trí Nhân, chúng tôi xin được bổ xung một số tư liệu để các bạn đọc hiểu rõ hơn về truyền thống văn hóa Đại Việt ta.

Thực ra người Việt từ xa xưa đã có chữ viết riêng, trước khi có chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Chữ Việt cổ là thứ chữ tượng thanh, ghép những chữ cái thành từ. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học của ta lâu nay như Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Hà Văn Tấn, Lê Huy Nghiệm, Trần Trọng Thêm, Lê Trọng Khánh, Phạm Ngọc Liễn… đã có những khám phá và còn tiếp tục dò tìm. Những nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa như Từ Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu… đều khẳng định người Việt ta đã có chữ viết riêng từ rất sớm.

Năm 1855, Tri châu Phạm Thận Duật ở Tây Bắc tìm ta một bộ chữ lạ có cấu trúc gần giống với chữ Mường cổ. Gần đây, nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và nền giáo dục thời Hùng Vương do các nhà văn Khánh Hoài và Đỗ Văn Xuyền chủ trì, cho rằng ngữ tự này có thể là biến thể của chữ Khoa đẩu, hay còn gọi là Hỏa tự đã được ghi trong cổ sử, nghĩa là nó có từ thời vua Hùng. Bộ chữ ấy còn lưu lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Kết hợp với bộ môn Khảo cổ học, người ta thấy trên các mặt trống đồng và nhiều di vật cổ xưa khác khai quật ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải rác ở phía nam Trung quốc, có một dạng ký hiệu giống nhau, như hình con nòng nọc và phát hiện ra đó chính là tự dạng để ghi lại những âm thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ. Bộ chữ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt từ xưa lắm, xa trước Công nguyên nhiều. Nó tồn tại song hành cùng ngôn ngữ Việt, thích ứng với đặc điểm ngôn ngữ Việt. Các nhà nghiên cứu đã mã hóa được các tự dạng đó và đã giải mã được các ký tự Việt cổ. Từ đó bật ra được tiếng nói của tổ tiên thời tiền sử… Đời vua Nghiêu, để giữ hòa hiếu giữa hai nước, người Việt đã đem Thần Quy ngàn năm tuổi tặng, trên mai có khắc chữ Khoa đẩu, chép việc từ thời khai thiên lập địa, nội dung như sau: Kể từ trời Nam mở vận, dòng họ đầu tiên trong nước là Hồng Bàng. Bậc quân vương thụ mệnh trời đầu tiên là Kinh Dương Vương – là hậu duệ của Thần nông. Kinh Dương Vương vốn được cha là Đế Minh phong làm chủ Nam Việt, kết duyên cùng Long nữ Hồng Đăng Ngân – con gái Động Đình Quân, sinh ra Lạc Long Quân, húy là Sùng Lãm. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm con từ một bọc trứng, ấy là thủy tổ của Bách Việt vậy. (Ngọc phả Liệt phả liệt vị Đại vương – La Nội, Hà Nội; Ngọc phả đền Tứ Lạc Long quân chi tử – Lập Thạch, Vĩnh Phúc; sách Tân lĩnh nam chích quái của Vũ Quỳnh)… Nhờ biết giải mã các ký tự cổ đó, người ta phát hiện ra một điều thú vị: Những từ vô lý (Suấy = suối; São le = song le; Đàng lão = Đàng trong; Thần Nõu = Thần nông; Lạc Lão Cuôn = Lạc Long quân… ) trong chữ Quốc ngữ buổi đầu (có trong từ điển và các văn bản khác) đã sử dụng lối cấu trúc của chữ Khai đẩu và thay vỏ La-tinh vào. Nó còn giúp các nhà nghiên cứu hiện nay có thể đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có tuổi hàng mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ rải rác trong dân và trong các thư viện ở Lisbon, Rhoma, Paris…

Chữ viết đóng góp phần quyết định vào nền văn minh của một dân tộc. Hệ thống giáo dục ở nước ta đã phát triển ngay từ thời Hùng Vương, An Dương Vương, thời Triệu, thời Hai Bà Trưng… ở khắp vùng Giao Chỉ, Cửu Chân cũ. Người Lạc Việt đã làm nên nền văn minh Đông sơn, có ảnh hưởng rất lớn đối với các dân tộc khác trước công nguyên và chữ Việt cổ có một không gian phân bố vô cùng rộng lớn (Lê Trọng Khánh).

Tiếc rằng tổ tiên ta chịu một quá trình lâu dài đô hộ với âm mưu huỷ diệt nền văn minh bản địa và quyết liệt đồng hoá dân tộc của các nước lớn ngoại bang. Chữ viết là đối tượng bị huỷ diệt trước nhất bởi nó phản ánh tư tưởng, tâm hồn của một dân tộc.

Thời Bắc thuộc, chính quyền đô hộ dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt bộ chữ Khoa đẩu của người Việt cổ. Sách sử truyền rằng Sỹ Nhiếp đã mang chữ Hán về khai hoá cho dân tộc Nam man hay là việc đó nằm trong chủ tâm thâm trầm độc địa của quốc gia xâm lược?! Đời này qua đời nọ, con chữ ngoại lai được tôn lên vị trí chính thống, dùng mãi dần quen đi, thì đồng thời con chữ truyền thống của dân tộc cũng bị lãng quên và chìm dần vào dĩ vãng! Chữ Khoa đẩu do không được phổ biến nên bị đóng băng, dần không phát triển kịp theo những biến âm trong tiếng nói của người Việt qua từng thời kỳ phát triển, mặc dù nó vẫn âm thầm tồn tại trong giao tiếp dân gian. Tuy nhiên, sức sống của người Việt vô cùng mạnh mẽ. Với khát vọng độc lập tự do luôn thôi thúc, từ chữ Hán tượng hình, người Việt chế tác ra thứ chữ Nôm cho riêng mình và chỉ qua mấy thế kỷ, chữ Nôm đã có những thành tựu rực rỡ, làm nên nền văn hoá Việt Nam cận đại với bản sắc riêng.

Đến thời thuộc Pháp, một lần nữa, chữ viết của người Việt – chữ Nôm, lại bị bức tử! Một bộ chữ mới gọi là Quốc ngữ ra đời. Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt thì sự ra đời của chữ Quốc ngữ có những đặc thù riêng. Phải chăng, chữ Việt cổ cùng trên cơ sở với chữ La-tinh tượng thanh, đã mau chóng được các linh mục đồng thời là những nhà ngôn ngữ học không chủ ý người phương tây tiếp nhận, sáng chế ra một dạng chữ đơn giản và dễ phổ cập là chữ Quốc ngữ ta dùng hiện nay. Tuy nhiên, để hình thành bộ chữ mới này, mấy ông tây dù học thức, thông thái đến đâu cũng không thể thâm nhập sâu vào đời sống dân dã để làm nên những quyển từ điển dày dặn công phu với những từ ngữ dân gian khá phong phú, kể cả những lời chửi tục mà chỉ được dùng với những người thân cận trong trạng thái tình cảm thất thường. Tất nhiên họ phải có những người bản địa cộng tác đắc lực. Theo Roland Jacques – nhà nghiên cứu ngôn ngữ học người Pháp, thì số người Việt góp công trong sự phát minh ra chữ Quốc ngữ lúc sơ khai gồm hai nhóm: Nhóm thứ nhất thuộc giới có học, là những thầy đồ, thầy tu thuộc nhiều tông phái Phật, Khổng, Lão, Trang…, quan lại, sỹ tử… hiểu nhiều tiếng mẹ đẻ, am tường nền văn hóa dân tộc. Nhóm thứ hai gồm các phiên dịch là các thanh niên giáo dân biết tiếng Bồ-đào, La-tinh giúp các giáo sỹ đi truyền đạo. Tất nhiên, số người Việt này phải hơn gấp nhiều lần so với các nhà truyền giáo tây phương. Điều hiển nhiên là trước khi có cuốn từ điển Việt-Bồ-La của giám mục Alexandre de Rhodes thì đã có những giám mục Bồ-đào-nha đến đây sớm hơn, hướng dẫn A.Rhodes và để lại những công trình ngôn ngữ cụ thể, như Francisco de Pina, Gaspa de Amaral, Antonio Barbosa. Chính Giám mục A.Rhodes thừa nhận đã sử dụng công khó của hai ông (G.Amaral với cuốn từ điển Việt-Bồ và A.Barbosa với cuốn từ điển Bồ-Việt) và thêm vào đó phần tiếng La-tinh. Cho nên R. Jacques đề nghị: Cần thiết phải đặt đúng vị trí việc làm của cá nhân Alexandre de Rhodes trong một công trình tập thể mà ông chỉ là một trong số nghệ nhân cư yếu, trong đó người Bồ-đào-nha và những người cạnh tranh ngang hàng Việt Nam của họ đã giữ vai trò hàng đầu. Vậy là đã rõ, việc làm của Alexandre de Rhodes, nên được coi như có phần đóng góp cải tiến chứ không thể vinh danh đơn phương là người khai sáng ra chữ Quốc ngữ ngày nay.

Việc cải tiến và đưa chữ Quốc ngữ vào đời sống của người Việt là cả một quá trình dài không đơn giản. Ý đồ hủy diệt một nền văn minh lâu đời của một dân tộc ở phương Đông không dễ được thực hiện. Trước hết nó gặp sự bất hợp tác của người bản địa là lẽ đương nhiên. Chữ Quốc ngữ ra đời vào giữa thế kỷ XVII, hầu như chỉ lưu hành trong giáo hội Cơ đốc, để các linh mục tây phương tiếp cận với người bản xứ. Nửa sau thế kỷ XIX, khi người Pháp hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam, họ có ý định dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán-Nôm thì ngay trong giới cầm quyền thuộc địa cũng có những phản ứng gay gắt. Họ đã hai lần tổ chức hội thảo nhưng vấn đề vẫn chưa được khai thông. Chính Toàn quyền Pasquier, đứng ở góc độ văn hóa, đưa ra lời khuyến cáo: “Các tác phẩm văn học Việt Nam, dù đậm nét dân gian hay có giá trị đỉnh cao của Nho học – một kho tàng văn hóa độc đáo, phi thường, nếu ta làm mất đi trong quên lãng, thử hỏi đó có là trọng tội không?… Ta không nên phá hoại bất cứ thứ gì trong tòa lâu đài văn hóa cổ xưa này… Nếu với sự độ lượng khoan dung, nước Pháp sẽ có thể được tôn trọng hơn, được qúy mến hơn khi họ biết đánh giá, biết nâng niu trân trọng những tài năng, những tác phẩm của người dân An Nam tại Đông Dương, biết cúi xuống thấp hơn một chút khi chào, cười với một ông thầy Đồ, chấp nhận mà không chút miệt thị, trên quan điểm thoáng mở có chọn lọc, trung thực, những thành tựu phát triển trí tuệ của họ”. Đến đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa lập một Ban cải tiến chữ quốc ngữ gồm nhiều học giả người Pháp và người Việt. Chữ Quốc ngữ được cởi trói và các thể loại văn học mới lần lượt ra đời nhưng vẫn không nhận được sự hưởng ứng mặn mà trong giới nho sỹ và giới bình dân.

Phải đến khi nhân dân ta giành được quyền làm chủ vận mệnh quốc gia thì ý thức cần được khai thông trí tuệ mới trỗi dậy mạnh mẽ. Lời Cụ Hồ nói cả nước đồng tình: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu! Yếu thì đói nghèo và mất nước! Đói nghèo – Dốt nát và Kẻ xâm lăng đều là giặc! Sự thật đó hiển nhiên nhưng mấy ai đã nhận ra? Và diệt nó tới cùng không dễ! Chữ Quốc ngữ được mạnh dạn cải tiến trên cơ sở tiếng Việt là thứ tiếng thống nhất trong cả nước nên việc phổ cập rất nhanh. Sau khi đuổi được giặc Pháp, năm 1960, Hội nghị cải tiến chữ Quốc ngữ lại được tổ chức tại Hà Nội. Chữ Quốc ngữ được nâng cấp, phát triển toàn diện, đáp ứng được trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ sinh hoạt, tình cảm, trí tuệ, tâm linh tới các bộ môn khoa học xã hội và tự nhiên hiện đại rất phức tạp, là ngôn ngữ chính thống giảng dạy trong các trường từ mầm non đến đại học.

Song, hãy nhìn vào thành tựu của văn hóa Quốc ngữ và văn hóa chữ Nôm mà suy ngẫm. Một thứ thì dễ dụng và một thứ thì thâm trầm. Một đàng mở lòng ra đón gió bốn phương. Một đàng kín đáo khép mình biền ngẫu. Nhà Quốc ngữ tiên phong Nguyễn Văn Vĩnh từng nói: Kể những sách của những bậc tài nôm nước Nam để lại mà làm nền cho quốc văn thì thực hiếm, nhưng tuy hiếm mà thực là qúy, thực là hay. Như văn Kim-Vân-Kiều mà đem vào kho tàng văn chương thế giới kể cũng xứng, chớ không đến nỗi để người An Nam mình phải hổ thẹn rằng nước không có văn. Cho đến hôm nay, văn chương Quốc ngữ đủ loại và nhiều nhưng đã có sách nào hay, qúy sánh ngang bằng bậc cha ông? Nhìn vào các tác phẩm văn chương đang được người ta tung hứng mà lòng những thẹn với lòng! Có ai kịp suy nghĩ lại lời cảnh báo như là tiên tri của ông Pasquier ngày ấy: Hãy tìm cách thích nghi, hòa nhập, chứ không phải hủy hoại, sao cho trong một thế kỷ tới người Pháp sẽ không phải chuốc lấy những lời trách cứ nặng nề rằng: Dưới chế độ tập quyền nghiệt ngã, những bản sắc đặc thù của một đất nước xa xôi đã bị tàn phá ! Chúng ta khỏi phải làm một việc như đã làm đối với Provence là: Vực dậy một nền văn học chết! Trong khi lại có người gọi là trí thức, mang dòng máu Lạc-Hồng, tri ân người theo ngoa ngôn của mấy ông thầy dòng: Khi cho Việt Nam các mẫu tự la-tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ! Cần biết rằng trên thế giới này có nhiều loại ký tự. Theo dòng tượng thanh như: La-tinh, Slavơ… Theo dòng tượng hình như: Ai-cập, Hán… Mỗi vùng miền có những đặc thù riêng về địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa và chính trị. Đánh giá nền văn minh và tốc độ phát triển của một dân tộc không ai chỉ dựa vào ký tự.

Chúng tôi cùng nghĩ như bạn Trí Nhân: Cái xác chữ chẳng là gì. Cái thần của chữ mới làm nên văn hóa. Cái thần ấy gọi là hồn nước, tiềm ẩn trong tâm thức mỗi người dân Đại Việt.

Nhiệm vụ của những người cầm bút chân chính là dựng dậy tinh thần Đại Việt.

                                                                   T.V.H

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here