Trang chủ Thiền môn xứ Huế Danh Tăng-Ni, Nhân sĩ Về tiểu sử Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung, khai sơn chùa...

Về tiểu sử Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung, khai sơn chùa Từ Đàm

209
0

Thế nhưng, cũng như chư vị Thiền Tổ khác, sử cũ Việt Nam ta không có quyển nào ghi chép rõ ràng; thậm chí một dòng bi ký cho thật chính xác khắc trên đá cứng cũng không có. Sách Đại Nam nhất thống chí (1910) chỉ ghi: “Chùa Từ Đàm: ở trên gò ấp Bình An. Tương truyền chùa do Tử Thông Hòa Thượng dựng, lại có tên chùa Ấn Tôn”.

Lời ghi chép quá đơn sơ, lại có phần sai nữa. Tử Dung chứ không phải là Tử Thông. Những tấm bia đá dựng ở chùa Chúc Thánh – Quảng Nam, lại chỉ nói Ngài là: “Người Đại Thanh, qua An Nam, trác tích Thuận Hóa, lập chùa Ấn Tôn”.

Tuy nhiên, một sự may mắn là tại chùa núi Phụng Sơn ở phủ Bình Khang còn có một bản Chánh pháp nhãn tạng khắc vào giữa tháng 5 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), và trong quyển Liệt Tổ thiền truyện (Hiện Thư viện chùa Từ Đàm- Huế tàng bản) của Ngài Bổn Quả Khoáng Viên khắc tại Trung Quốc, về sau các Thiền sư ở Thuận Hóa trùng khắc và tục biên; một bản Chánh Pháp nhãn tạng của Ngài Chơn Kim Pháp Lâm soạn năm 1889 (Hiện chùa Viên Thông – Huế tàng bản)  đã giúp chúng ta biết được các chi tiết sau:

Vào cuối đời Minh, tông Lâm Tế rất long thịnh ở Thiên Đồng Sơn và Khánh Sơn. Tại Thiên Đồng Sơn có phái Thiên Đồng Viên Ngộ; từ chùa Thiên Đồng có Ngài Thông Thiên được phong làm Quốc sư hiệu là Hoằng Giác gọi là Quốc sư Thông Thiên Hoằng Giác, ở vào đời thứ 31 dòng Lâm Tế. Ngài này truyền thừa theo Kệ của Ngài Vạn Phong Thời Ủy; chúng tôi tạm gọi là “Kệ chùa Thiên Đồng”:

Tổ Đạo Giới Định Tông,
Phương Quảng Chứng Viên Thông,
Hạnh Siêu Minh Thật Tế,
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không.

Đồng thời Ngài cũng biệt xuất Kệ và khai sơn chùa Thiên Khai. Kệ của Ngài là: Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên…; cũng đồng thời Ngài tự đổi Pháp húy thành Đạo Mẫn Mộc Trần; đó là Kệ chùa Thiên Khai. Ngài viên tịch vào triều Lê, không rõ năm nào chỉ thấy ghi ngày 16 tháng 11.

Có thể Ngài đã qua Nam với nhiều Ngài có chữ “Minh” đứng trước, các Ngài có thể ở chùa Thiên Đồng, có thể ở chùa Thiên Khai, chùa Báo Tư v.v.. .Nhưng  đều đi một lần với Ngài Nguyên Thiều Hoán Bích vào năm 1676 hoặc 1677, cùng đổ bộ lên Quy Ninh. Ở đây, chúng tôi sẽ nói đến mấy vấn đề cần yếu sau:

Trong sách Việt Nam Phật giáo sử lược (1942), đã được in lại nhiều lần; Thượng tọa Mật Thể cho rằng: Tổ Minh Hoằng Tử Dung qua Thuận Hóa một lần với Ngài Thạch Liêm (Sđd. tr.193-194) vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái (1687-1691) để ngồi trên ghế Thập Sư ở giới đàn  chùa Thiên Mụ; sau giới đàn Ngài ra lập chùa Ấn Tôn. Đoạn này, rất cần đến sự đnh chính của hậu thế chúng ta. Thứ nhất, Ngài Thạch Liêm qua Thuận Hóa năm Ất Hợi (1695) đời Nguyễn Phúc Chu, chứ không phải qua vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái. Thứ hai đại giới đàn năm Ất Hợi (1695) mở tại chùa Thiền Lâm chứ nhất định không phải là ở chùa Thiên Mụ. Thứ ba, tất cả chư tăng trong đại giới đó đều là người Trung Quốc, đệ tử của Thạch Liêm Hòa thượng  chứ không có ai khác, cho nên Tổ Minh Hoằng Tử Dung không can dự đến giới đàn này.

Cũng trong sách nói trên, Thượng tọa Mật Thể đã dịch câu này trong văn bia: “Nhâm Thìn hạ, Hòa thượng lai quảng tấn toàn viện” thành ra như thế này: “Năm Nhâm Thìn (1712) mùa hạ, Hòa thượng vào Quảng Nam dự lễ Toàn Viện” (?) (Sđd tr.202). Có lẽ Thượng tọa Mật Thể đã theo bản Pháp văn của Louis Sogny trong bài Le premier Annamite… ở B.A.V.H., số 3 năm 1928 mà chúng tôi đã từng viện dẫn ở bài nói về thiền sư Từ Lâm. Thực sự, có lẽ câu ấy muốn nói rằng mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712) ấy, lễ an cư kiết hạ đựợc tổ chức rất quy mô ở Thiền Lâm thiền viện thuộc vùng đất rất rộng trước mặt chùa Từ Đàm hiện nay; có thể chư Tăng ở Thuận Hóa – Quảng Nam vân tập về đây và toàn viện đã cung thỉnh Ngài Tử Dung ở Ấn Tôn gần đó đến làm Thiền chủ. Cách chấm câu ấy có thể là: “Hòa thượng lai, quảng tấn toàn viện” tức là Hòa thượng đến, coi sóc nhắc nhở chu đáo mọi việc và sách tấn, khuyến khích chư Tăng để khai lễ cho chư Tăng vào hạ.

Phương pháp hoằng giáo của sơ Tổ Minh Hoằng Tử Dung đúng là phương Pháp của chư Thiền Tổ trong phái Lâm Tế chánh tông; tức là trao công án (tiếng Nhật: Koan) cho đệ tử “tham”. Công án Tổ Minh Hoằng Tử Dung đã trao cho Liễu Quán Thiền sư là: “Vạn Pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?”. Yếu chỉ của Thiền Lâm Tế là đốn ngộ (Nhật: Satori). Không kể lâu hay mau, khi vị Thiền sinh tham công án đến tột cùng, hoát nhiên ngộ đạo. Vị Thiền sinh ngộ đạo sẽ biểu lộ bằng một hành động mà thế nhân thấy rất kỳ quặc, khác thường; hoặc làm một bài Kệ để trình Tổ. Thấy đệ tử đạt, Thiền Tổ liền ấn chứng, người ta còn gọi là “ấn khả”, và chính vị Thiền sư được ấn khả đó là Tổ kế thế của vị Tổ trước.

Tổ Liễu Quán đắc Pháp ở Sơ Tổ Minh Hoằng Tử Dung đúng theo không khí Lâm Tế chánh tông ấy. Theo thuyết truyền thì trong kỳ kiết hạ năm Nhâm Thìn (1712); sau khi Thiền sư Liễu Quán trình Kệ “Dục Phật” – rất tiếc là bài Kệ này không được chép lại – Sơ Tổ Minh Hoằng liền "ấn khả". Nhưng theo văn bia thì có khác, chúng tôi sẽ nói rõ trong một bài khác khi nói về Thiền sư Liễu Quán. Từ giờ phút được ấn khả thì y bát của Minh Hoằng Tử Dung Sơ Tổ tại Ấn Tôn Hoàng Long Sơn, đã đi về núi Thiên Thai. Sau một thời gian Thiền phái Tử Dung – Liễu Quán phát triển rực rỡ khắp cõi Thuận Hóa và lan ra cả Nam Hà từ thế kỷ thứ XVIII tl., kéo dài cho đến tận ngày nay.

H.X.L.

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here