Trang chủ Văn hóa - Lịch sử Thiền phái Liễu Quán

Thiền phái Liễu Quán

195
0

Khởi đầu một Thiền phái


Tại cố đô Huế, dòng thiền Liễu Quán (Chánh tông) phát triển sâu rộng. Ngài thuộc đời thứ 35 của dòng Thiền Nghĩa Huyền (801-865) vào đời Đường, Trung Quốc. Khi sang Việt Nam, thiền phái nầy được truyền thừa do ngài Nguyên Thiều, thuộc đời 33 ở Đàng Trong.


Trong VNPGSL, Thượng Toạ Thích Mật Thể có viết: Ngài họ Tạ, quê ở Trình Hương Triều Châu, Quảng Đông, xuất gia năm 19 tuổi, tu ở chùa Báo Tư thọ giáo với ngài Bổn Khao Khoán Viên Hòa thượng. Niên hiệu Cảnh Trị năm thứ ba đời Lê Huyền Tôn (năm Ất Tỵ thứ 17 đời chúa Nguyễn Phúc Tần: 1665), ngài đi theo thuyền buôn qua An Nam (Việt Nam), trú ở phủ Qui Ninh (Bình Định) lập chùa Thập Tháp Di Đà, mở trường truyền dạy; sau ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung (thuộc huyện Phú Lộc nay hãy còn), rồi lên Xuân Kinh (Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Đồng (?). Vết tích nầy được khai quật gần đây (1977). (Tạp chí Khảo Cổ học)


Do chúa Nguyễn muốn xiển dương đạo pháp, ngài phụng mệnh đức Anh Tôn (Nguyễn Phúc Trăng: 1687-1691) trở về Trung Quốc, tìm mời các Danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài về Quảng Đông mời được Thạch Liêm Hòa thượng (Thích Đại Sán) và các Danh Tăng khác, cùng thỉnh được nhiều kinh điển tượng khí đem về. Chúa Nguyễn liền sắc mở đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó chúa Nguyễn sắc ban ngài chức Trú trì chùa Hà Trung, phía Đông Bắc Huế. Lễ khai hội rất lớn (theo Ô Châu Cận Lục).


Sau chuyến đi, ngài phải bôn ba khổ nhọc. Sức khoẻ yếu dần. Một hôm ngài lâm bệnh, họp môn đồ lại dặn dò mọi việc và ngài truyền cho bài kệ “Tâm cảnh” Ý ngài muốn khai thị cho trong Chúng biết : Thể pháp thân thanh tịnh sáng suốt, như bức gương sáng sạch không bụi, như ngọc minh châu trong sáng, bóng ngời, tuy hiện tiền sự sự vật vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân biểu hiện thể pháp thân thường vắng lặng mà không phải là không, tức là lý “chân không diệu hữư”.


Ngài viết xong bài kệ vừa ngồi yên lặng mà tịch. Ngài mất ngày 19 tháng 10 niên hiệu Bảo Thái thứ 10 nhà Lê, đồ chúng cùng các tể quan thọ giới đệ tử làm tháp Hóa Môn để chôn cất hài cốt (tháp này bên đồi nhỏ xóm Thuận Hóa làng Dương Xuân Thượng)


Hiến Tôn Hoàng đế ban thụy hiệu là: “HẠNH ĐOAN THIỀN SƯ”, và có làm bài minh khắc vào bia để tán thán đạo đức của ngài:


Ưu ưu Bát-nhã,
Đường đường phạm thất,
Thủy nguyệt ưu du,
Giới trì chiến lật.
Trạm tịch cô kiên
Trác lập khả tất
Quán thân bổn không
Hoằng pháp lợi vật,
Biến phú từ vân
Phổ chiếu huệ nhật
Chiêm chi nghiêm chi
Thái sơn ngật ngật.


Đại ý:


Cao vút trí tuệ
Phạm hạnh vun trồng
Giới đao một lưỡi
Trăng nướng thung dung.
Ngồi đứng một thân,
Trong lặng kiên cường,
Hoằng pháp lợi người
Quán thân vốn không
Mây từ che khắp
Trời tuệ chiếu cùng,
Ngắm đi ngắm đi,
Thái sơn oai hùng.
(Bản dịch của Tâm Minh)


Ngài là vị Tổ truyền phái Lâm Tế đầu tiên đã nhanh chóng xây dựng ở Đàng Trong. Căn cứ tho phổ hệ truyền thừa thì các đệ tử được ngài truyền pháp cho, hoặc các ngài dưới ngài cùng ngài truyền dòng Lâm Tế, như ngài Minh Hoằng Tử Dung, Minh Hải Pháp Bảo, Minh Vật Nhất Tri v.v… (Theo Nguyễn Lang – VNPGSL)


Như vậy, nếu xét trong “Lịch Truyện Tổ đồ” thì ngài Nguyên Thiều đứng về đời 69, xét về chánh thống phái Lâm Tế thì ngài đứng về đời 33, mà truyền phái Lâm Tế ở Đàng Trong thì ngài là Sơ tổ.


Những vấn đề tồn nghi


Xét theo lịch sử Phật giáo ở Việt Nam ta về khoảng đầy những biến động chính trị và xã hội này, có đời chỗ mơ hồ, cần phải biện minh không thể bỏ qua được, ấy là nói về lối truyền thống của phái Lâm Tế do sau khi ngài Nguyên Thiều truyền sang.


Theo Thượng toạ Thích Mật Thể giải thích thì nhấn mạnh rằng: Đành rằng ngài là vị Tổ đầu tiên truyền phái Lâm Tế ở ta, nhưng trước tiên ngài đã kế thừa nơi một ngài nào ? Và sau, những ai là người được truyền thọ pháp ấy ? Muốn trả lời những dấu hỏi ấy không phải chuyện dễ . Nguyên do bởi ngài đã mang lấy hai danh hiệu: Nguyên Thiều, Siêu Bạch.


Kể Phật giáo sau khi truyền qua Trung Hoa, vì phân chia tôn phái có nhiều, nhất là về phái Thiền Tông lại có chia ra nhiều nhánh khác nhau. Nên các ngài về sau lại sinh ra tư tưởng đặt những giòng kệ để chấm dấu về thống hệ của mình. Như phái Thiền Tôn truyền đời ngài Nghĩa Huyền, ngài lại lập ra nhánh gọi là Lâm Tế. Lâm Tế truyền đến đời 21 là ngài Vạn Phong Thời Ủy ở chùa Thiên Đồng (Trung Hoa) xuất ra bài kệ : Tổ, Đạo, Giới truyền đến đời 31 là ngài Đạo Mân lại xuất một giòng kệ khác : Đạo, Bổn, Nguyên, Thành…

Như trên đã nói : ngài đã mang lấy hai danh hiệu: Nguyên Thiều và Siêu Bạch. Xét danh hiệu Nguyên Thiều là thuộc về giòng kệ của ngài Đạo Mân, tức là sư tổ của ngài mới lập ra Siêu Bạch là thuộc về giòng kệ của ngài Vạn Phong , tức là Tổ II đời của ngài truyền xuống. Do đó, người ta bảo ngài đã thọ giáo cả hai bên. Bên giòng kệ của ngài Vạn Phong thì ngài được hiệu là Siêu Bạch; bên giòng kệ của ngài Đạo Mân thì ngài được hiệu là Nguyên Thiều. Lẽ đó xét có phần đúng.


Nhận định của học giả Trần Văn Giáp: (…) Lại thấy có chỗ chép ngài Đạo Minh Huệ Nhật ở chùa Thiên Khai (Trung Hoa) xuất ra giòng kệ: Đạo, Bổn, Nguyên … ấy, sau khi vừa mới thừa truyền theo giòng kệ Tổ, Đạo, Giới… của ngài Vạn Phong chỉ có một đời. Bởi vậy rất sai vì nếu nói ngài Đạo Minh xuất giòng kệ ấy thì chữ “Nguyên” của ngài Nguyên Thiều không phải là chữ “Nguyên” trong giòng kệ đó . Vì đem những chữ trong hai giòng kệ kia ra mà đối chiếu thì từ chữ “Nguyên” – Nguyên Thiều đến chữ “Siêu” – Siêu Bạch – cách nhau đến 8 – 9 chữ (tức là 8 – 9 đời) làm sao mà gặp nhau ở nơi một người được ?


Giải quyết được điều này, tức đối vấn đề : Vì sao ngài lại truyền xuống cả hai giòng kệ ấy (hiện nay chùa Quốc ân (Huế) thì theo giòng kệ chữ “Nguyên”, tức là giòng của ngài Đạo Mân; chùa Thập Tháp (Bình Định) thì theo giòng kệ chữ “Siêu” tức là giòng của ngài Vạn Phong) (?) Và trong hàng chữ “Minh” và chữ “Thành” (Sau chữ Nguyên, chữ Siêu một chữ) ai là đệ tử của ngài ?


Như trên nói ngài đã thọ giáo cả hai bên. Nên ở đây có thể nói: Một bên ngài muốn truyền xuống giòng kệ chữ “Siêu” của Tổ Vạn Phong. Một bên ngài muốn truyền xuống giòng kệ chữ “Nguyên” của sư tổ mình. Bản ý đều muốn làm cho phái diễn của tổ tiên khỏi phải đứt đoạn.


Chứng thật cho ý kiến này, ta nhận thấy bất kỳ ở chùa Thập Tháp hay Quốc Ân, dưới ngài đều có những ngài hoặc chữ “Minh” hoặc chữ “Thành” xen lẫn nằm trong thế hệ.


Vậy còn ai là đệ tử của ngài Nguyên Thiều? Theo thế hệ truyền thống ở chùa Thập Tháp và Quốc Ân thì dưới ngài Nguyên Thiều, Siêu Bạch, phần nhiều là những ngài nằm về chữ Minh cả. Như ngài Minh Vật Nhất Tri, Minh Hoàng Định Nhiên, Minh Giác Kỳ Phương, Minh Dung Pháp Thông, Minh Dương Nguyệt Ân v.v… và có xen lẫn một đôi ngài nằm về chữ “Thành” như ngài Thành Đẳng Minh Yêu, Thành Nhiên Pháp Thông, v.v… Ngài các ngài ấy lại có những ngài cũng là chữ ‘Minh” như ngài Minh Hoằng Tử Dung (khai sơn chùa Từ Đàm- Huế), Minh Hành Tại Toại (ở Nhạn Tháp Sơn – Bắc Kỳ), Minh Hải Pháp Bảo (khai sơn chùa Chúc Thánh, Quảng Nam) v.v… (Theo Bulletin Des Amis du Vieux Huế – Tom 32)


Theo tương truyền xưa nay thì các ngài vừa mới kể trên đều là đệ tử của ngài Nguyên Thiều cả (Vả xét theo thế hệ của hai giòng kệ thì dù ngài chữ “Minh” hay chữ “Thành” cũng đều nằm dưới ngài Nguyên Thiều một chữ cả). Nhưng nếu đứng ra ngoài tín ngưỡng tập truyền, dùng quan điểm của nhà sử học mà dò xét, thì không thể bảo các ngài đó đều là đệ tử của ngài Nguyên Thiều cả.


Khảo chứng Tư liệu


Theo bài bia ký dựng ở chùa Quốc Ân còn bảo lưu hiện nay thì thấy chép: Ngài 19 tuổi xuất gia tu ở chùa Báo Tư, thọ giới với ngài Khoáng Viên Hòa thượng … Vậy sau khi ngài xuất gia, còn phải tu học 5, 7 năm. Lại trong bài bia ấy chép: “Niên hiệu Cảnh Trị năm thứ ba đời Lê Hiến Tôn (năm Ất Tỵ thứ 7 đời chúa Nguyễn Phúc Tần:1665), ngài đến Đàng Trong lập chùa Thập Tháp (xem lại truyện ngài Nguyên Thiều)”.Thế thì khi ngài qua Việt Nam đại khái cũng trên 30 tuổi. Ngài qua, trước hết ở phủ Quy Ninh lập chùa Thập Tháp; từ khi qua đến khi lập thành chùa Thập Tháp, ít nữa cũng phải trải qua thời gian mươi năm.


Theo tài liệu của Lê Văn Siêu Ngài ra Thuận Hóa ở chùa Hà Trung, lên Xuân Kinh lập chùa Quốc Ân cũng phải mất hết thời gian chừng trên 10 năm nữa: Cho đến khi phụng mệnh đức Anh Tôn (1687-1691) trở về Trung Quốc, tìm thỉnh các Danh Tăng về khai giới đàn tại chùa Thiên Mụ. Chỉ thấy trong sử chép ngài Thạch Liêm cùng ngài qua lúc này. Nhưng theo tương truyền xưa nay thì cùng qua với ngài, ngoài ngài Thạch Liêm còn có các ngài khác nữa, như ngài Tổ khai sơn chùa Thuyền Lâm (Huế) v.v. . . với các ngài Minh Hoằng Tử Dung, Minh Hải Pháp Bảo . . . (xét về thời đại của các ngài qua cũng nhằm lúc ấy).


Nhận định: Vậy các ngài chữ “Minh” đồng qua với ngài lúc này, có thể bảo đều là đệ tử của ngài NguyênThiều cả không ? E không thể bảo được. Bởi thời gian ở Trung Hoa của ngài rất ít, mà thời gian ở An-nam thì nhiều, làm gì đã có đệ tử xứng đức, xứng vị để cùng qua với ngài ngồi trong địa vị Thập sư trên giới đàn ? Và trong sử chép ngài vâng mệnh vua về thỉnh các Danh Tăng; nếu ngài chỉ bảo đệ tử của ngài qua (giả sử ngài đã có đệ tử ở Trung Hoa), thế thì ngài đã hẹp hòi và tỏ khinh thường hai chữ “Danh Tăng” lắm ru ! Nên dù cho trong khi ngài qua cũng có những vị đệ tử hoặc mới theo lúc ngài trở về, hoặc đã theo lúc ngài chưa qua An-nam, nhưng thiết tưởng những vị ấy cũng chỉ theo để hầu thầy chứ chưa có thể ngồi ngang một ghế Thập sư trong giới đàn được, mà dù có cũng chỉ được đôi ba vị thôi.


Vậy ta có thể bảo những ngài Minh Hoằng Tử Dung, Minh Hải Pháp Bảo, Minh Hành Tại Toại …chỉ là những ngài nằm dưới ngài Nguyên Thiều một chữ, gọi ngài là sư thúc hoặc sư bá gì chớ chưa hẳn là đệ tử của ngài cả.


Di chỉ: Trong tấm bia đá dựng ở chùa Chúc Thánh và trong quyển “Liệt Tổ truyện”, có nói đến lược sử của ngài Minh Hoằng cùng ngài Minh Hải, nhưng chỉ nói qua ngài người Đại Thanh, qua An-nam, trác tích Thuận Hóa, lập chùa Ấn Tôn (Từ Đàm); vô ở Quảng Nam lập chùa Chúc Thánh, chớ không nói đến hai ngài đó là đệ tử của ngài nào. Vậy căn cứ vào đây, ta có thể cho lời bàn trên là đúng chăng (?)


Thượng tuần tháng 6 năm 1682 sau khi giới đàn xong, ngài Minh Hoằng mới tự do lập chùa Ấn Tôn ở Huế, ngài Minh Hải lập chùa Chúc Thánh ở Quảng Nam và ngài Minh Hành ra ở Nhạn Tháp Sơn, Bắc Kỳ. Trái lại nếu quả là đệ tử, thì tình thầy trò đâu có rã rời gấp gáp đến thế. Tiếc rằng về những sử liệu này, sau một thời kỳ biến loạn Tây Sơn, những cái có quan hệ đến lịch sử như giấy má, bia ký đều bị thất lạc, không đủ giúp cho ta khảo xét thêm được rõ ràng, chắc chắn hơn nữa. (Việt Khảo Sử Lược – Tôn Thất Dương Kỵ – XB 1951)


Thạch Liêm Hòa thượng :


Ngài quê ở Giang Tây nước Trung Hoa, học vấn uyên bác, bao nhiêu món thiên văn, địa dư, toán số, cho đến nghề viết, nghề vẽ, không thứ gì ngài không tinh xảo, lại có sở trường về thơ phú. Cuối đời nhà Minh, nhà Mãn Thanh làm chủ Trung Quốc, ngài không chịu ra làm quan, bái từ mẹ già, cắt tóc đi tu, rồi vân du khắp nơi. Khi Thọ Tôn Hòa thượng (Nguyên Thiều) vâng mệnh chúa Nguyễn về Quảng Đông tìm các bậc Cao Tăng, có nghe tiếng ngài liền đến mời ngài Trú trì ở chùa Thiên Mụ để dạy đệ tử và thường mời vào cung đàm đạo; sau ngài có lập chùa Khánh Vân gần chùa Thiên Mụ. Ở được ít năm, ngài xin trở về Trung Hoa không qua nữa.


Sau nhân có tàu buôn qua, ngài có gởi dâng chúa Nguyễn một bức thơ xích độc và một bài thi :


XÍCH ĐỘC


Nhất giang yên lãng, đạo cách trùng vân,
Bát độ xuân quang, tuyết thiêm hoa mấn.
Sổ nhơn gian chi hạ lạp,
Ức thiên ngoại chi nhơn duyên;
Diêu tri cam điện bồ đoàn,
Dĩ chứng huỳnh mai tiêu tức.
Viên khiển độ giang chi vĩ,
Thiểu thân súc địa chi hoài.
Dạ nguyệt thông triều, trì lai viễn tín,
Tân thi ký tặng, quí phạp trường ngôn.


Dịch :


Trời bể muôn trùng,
Nước mây cách trở.
Xuân về mấy độ,
Làn tóc nửa sương.
Bấm tay nghĩ chuyện nhân gian,
Chạnh nhớ mối tình thiên ngoại.
Tưởng chừng dưới chiếc bồ đoàn,
Đã tỏ huỳnh mai lối cũ.
Thuyền lan tiện gió,
Thâu chỗ nhớ nhung.
Sóng vỗ trăng ghềnh
Mây đưa tình nhạn
Mấy lời quê cạn,
Tỏ chút u hoài.


THI VIẾT :


Đông phong tân lãng mãn giang tần,
Tưởng kiến hồ sơn vũ lộ tân.
Tự thị dương hòa qui thảo mộc,
Thái bình nhân túy hải thiên xuân.


THƠ RẰNG :


Sóng rởn hoa tần phất gió đông,
Đỉnh hồ tưởng thấy hạt mưa nhuần.
Cỏ cây vui dưới trời êm diu,
Người ngắm thăng bình tắm bể xuân.


Ngài có làm tập “Ly Lục Đường thi”, tập “Hải ngoại ký sự” và bộ “Kim Cang trực sớ” còn lưu hành. Thời ấy chúa Nguyễn đang trấn ở Thanh Hóa; phần nhiều là người Chàm. Hai ngài này : Nguyên Thiều và Thạch Liêm – là người rất có công đem văn hóa và học thuật Trung Quốc khai hóa cho dân ta xứ này.


Tử Dung Minh Hoằng : Không rõ ngài tên họ là gì chỉ biết ngài là đời thứ 34 Lâm Tế; quê ở Quảng Đông theo ngài Nguyên Thiều qua An-nam ở Thuận Hóa có lập chùa Ân Tôn (tức chùa Từ Đàm, Hội Quán hội Phật học bây giờ).


PHÁI LIỄU QUÁN


Nếu ở Ðàng Ngoài thiền sư Chân Nguyên được xem là nhân vật then chốt để phục hưng Phật Giáo Ðàng Ngoài, thì ở Ðàng Trong thiền sư Liễu Quán cũng được xem là vị thiền sư lãnh đạo công cuộc phục hưng Phật Giáo Ðàng Trong.


Ông là người làng Bạc Mã, huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên, sinh năm 1670 từ một gia đình nghèo. Ông mồ côi mẹ từ hồi lên sáu tuổi. Năm mười hai tuổi ông đi chùa Hội Tôn với cha. Gặp thiền sư Tế Viên, ông rất yêu mến và xin ở lại chùa để học đạo. Cha ông ưng thuận. Làm chú tiểu ở chùa Hội Tôn, ông được thiền sư Tế Vien thương yêu. Ông ở lại, làm việc nấu nước, nhặt rau, học Hán tự, hai thời khóa tụng, luật sa di và những kinh điển dễ học. Chín năm sau, thiền sư viên tịch. Lúc bấy giờ ông mới mười chín tuổi. Tang lễ của thầy làm xong, ông để chùa cho các sư huynh trông nom, một mình lên đường học đạo. Năm 1690, ông vượt núi băn ngàn ra tận Thuận Hóa núi Hàm Long, cầu học với thiền sư Giác Phong. Ông được chấp nhận ở lại đây để tu học. Ai ngờ mới được một năm tròn thì ông nghe tin thân phụ bị bệnh. Ông xin phép trở lại quê nhà để lo săn sóc cho cha. Hàng ngày ông lên rừng đốn củi, đem về đổi vạo nấu cơm cho cha ăn. Bốn năm sau, thân phụ ông từ trần. Lo ma chay cho cha xong, ông lại lên đường học đạo. Năm 1695, nghe nói thiền sư Thạch Liêm tổ chức giới đàn lớn tại chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa, ông đến xin ghi tên thụ giới tỳ khưu tại giới đàn do thiền sư Từ Lâm là Hòa Thượng Ðường Ðầu. Ðó là năm 1697, lúc ông được 27 tuổi. Ðịnh cư hai năm, ông lại lên đường cầu học, tham lễ khắp các tổ đình. Năm 1702 ông được gặp thiền sư Tử Dung tại chùa Ấn Tôn núi Long Sơn, Thuận Hóa. Thiền sư dạy; ông tham khảo về công án: “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” (Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?). Ông rút về núi Phú Yên tĩnh cư, tham cứu đến năm năm mà chưa phá vỡ được công án ấy, trong lòng lấy làm hỗ thẹn. Một hôm đọc Truyền Ðăng Lục đến câu “trỏ vật mà truyền tâm, chính vì vậy mà người ta không hiểu” (Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ), thoạt nhiên ông thấy tỏ ngộ, bèn buông sách xuống. Mùa xuân năm 1708, ông trở ra Long Sơn, trình bày công phu mình với thiền sư Tử Dung. Tử Dung nói:


Hố thẳm buông tay
Một mình cam chịu
Chết đi sống lại,
Ai dám chê mình.


Ông vỗ tay cười. Tử Dung nghiêm nét, nói: “Chưa được”. Ông lại nói: “Trái cân vốn là sắt” (Bình thùy nguyên nhị thiết). Tử Dung lắc đầu.


Sáng hôm sau, Tử Dung thấy ông đi ngang, gọi lại bảo: “Chuyện ngày hôm qua nói chưa xong, hôm nay hãy nói lại xem”. Liễu Quán đọc:


Sớm biết đèn là lửa
Cơm chín đã lâu rồi!

Bây giờ Tử Dung không tiếc lời khen ngợi. Mùa hè năm 1712 khi hai người gặp nhau lần thứ ba tại đại lễ Toàn Viện tại Quảng Nam, Liễu Quán đem trình Tử Dung bài kệ Tắm Phật mà ông mới làm. Tử Dung hỏi: “Tổ truyền cho tổ, Phật truyền cho Phật, chẳng hay họ truyền nhau cái gì nhỉ?” (Tổ tổ tương truyền, Phật Phật thụ thụ, vị thẩm truyền thụ các thập ma?)


Liễu Quán đọc liền hai câu:


Búp măng trên đá dài hơn trượng,
Cây chổi lông rùa nặng mấy cân.

(Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng
Quy mao phủ phất trong tam cân)

Tử Dung lại đọc:
Chèo thuyền trên núi cao
Phi ngựa dưới đáy biển

(Cao cao sơn thượng hành thuyền
Thâm thâm hải để tẩu mã)

Liễu Quán lại đọc tiếp:
Dây đứt đàn tranh chơi suốt buổi
Gảy sừng trâu đất rống thâu đêm

(Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống
Một huyền cầm tử vận nhật đàn)
Tử dung gật đầu tỏ ý rất bằng lòng.


Thiền sư Liễu Quán lúc bấy giờ đã 42 tuổi. Ông đã có nhiều đạo tràng hành đạo: đó là chùa Thiền Tông, chùa Viên Thông (Thuận Hóa) và các chùa Hội Tông, Cổ Lâm và Bảo Tịnh ở Phú Yên. Chùa Thiền Tông được tạo dựng ở núi Thiên Thai, vào khoảng năm 1708. Mãi đến năm 1747, nghĩa là năm năm sau khi thiền sư Liễu Quán tịch, chùa mới được chúa Nguyễn Phúc Khoát ban biển ngạch sắc tứ. Ðại Hồng Chung hiện giờ của chùa cũng được đúc vào năm đó, tức là năm Cảnh Hưng thứ tám. Chùa Viên Thông cũng được Liễu Quán tạo dựng ở chân núi Ngự Bình. Chúa Nguyễn Phúc Khoát rất sùng kính đạo hạnh của ông, nhiều lần triệu thỉnh vào phủ, nhưng ông một mực từ chối, không muốn lui tới nơi triều đình. Vì vậy, chúa thường tới chùa Viên Thông ở chân núi Ngự Bình để thăm ông và hỏi đạo. Vì lý do đó, ngọn núi kia được gọi là núi Ngự. Bốn giới đàn lớn được tổ chức liên tiếp trong ba năm, từ 1733 đến 1735 tại Thừa Thiên, có sự tham dự của các cao tăng và các bậc tể quan cư sĩ ở kinh đô; thiền sư Liễu Quán được thỉnh cầu chủ tọa. Giới Phật tử rất hâm mộ ông, cho nên năm 1740 lại tỉnh cầu ông chủ tọa giới đàn Long Hoa. Xong giới đàn này, ông trở về chùa Thiền Tông. Năm 1742, tuy đã 72 tuổi, ông vẫn phải làm Hòa Thượng Ðường Ðầu của giới đàn tổ chức tại chùa Viên Thông. Ðệ tử thụ giới của ông kể cả xuất gia lẫn tại gia có tới gần bốn ngàn người.


Mùa thu năm ấy, Liễu Quán an trú tại chùa Viên Thông; sáng ngày 21 tháng 11 âm lịch, ông gọi thị giả mang giấy bút tới, và viết bài kệ sau đây:


Ngoài bảy mươi năm cõi sắc không
Sắc không không sắc đã dung thông
Sáng nay vẹn ước, về quê cũ
Há phải tìm cầu hỏi tổ tông

(Thất thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà Tất bôn mang vấn tổ tông?)


Viết bài kệ xong, ông ngồi dùng trà. Ðại chúng lên làm lễ, có người than khóc. Ông nói: “Quý vị đừng khóc. Các đức Phật thị hiện còn nhập Niết bàn, còn tôi thì đường đi nẽo về đã rõ ràng, không việc chi phải khóc”. Mọi người im lặng. Thầy trò nói chuyện hồi lâu, ông hỏi: “Ðã đến giờ mùi chưa?” Mọi người đáp: “Phải”. Ông nói: “Sau khi tôi đi, quý vị phải nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng của cuộc đời mà siêng năng tu tập trí tuệ, chớ quên lời dặn của tôi”. Nói xong ông nhắm mắt mà tịch trong tư thế kiết già.


Chúa Nguyễn Phúc Khoát sắc làm bia và tháp cho ông, và ban thụy hiệu là “Ðạo Hạnh Thụy Chính Giác Viên Ngộ Hòa Thượng”.


Tháp ông được dựng tại chùa Thiền Tông trên núi Thiên Thai. Ông là người thuộc đời thứ 35 dòng Lâm Tế. Ông để lại bài kệ truyền pháp sau đây:


Thiệt tế đại đạo
Tính hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận,
Ðức bổn từ phong
Giới định phúc tuệ
Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả
Một khế thành công
Truyền trì diệu lý
Diễn xướng chính tông
Hành giải tương ứng
Ðạt ngộ chân không


Dịch:


Ðường lớn thực tại
Biển thể tính trong
Nguồn tâm thấm khắp
Gốc đức vun trồng
Giới định cùng tuệ
Thể dụng viên thông
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên công
Thuyền giữ lý mầu
Tuyên dương chính tông
Hành giải song song
Ðạt ngộ chân không


Thiền sư Liễu Quán đã ra công phát triển cho thiền phái Lâm Tế trở thành một thiền phái linh động, có gốc rễ ở Ðàng Trong đặc biệt là vùng cố đô Huế. Trước ông, Phật Giáo ở Ðàng Trong mang nặng màu sắc Phật Giáo do các Thiền sư từ Quảng Ðông truyền sang từ nghi thức đến giáo quy. (VNSL). Chính ngài đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế, và làm cho thiền phái này trở thành thiền phái của đa số Phật tử Ðàng Trong.


Kiến trúc lễ nhạc, diễn xướng bắt đầu trút bỏ màu sắc Trung Quốc và từ từ mang lấy màu sắc dân tộc. Những bài tán lễ như “Cực lạc Từ Hàng” chẳng hạn, đã hoàn toàn mang màu sắc Việt. Bốn vị đệ tử lớn của ông là Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu dã tạo lập bốn trung tâm hoằng đạo lớn, và hàng chục tổ đình được tạo dựng khắp Ðàng Trong trong thế kỷthứ mười tám đã thuộc về môn phái Liễu Quán. Phong trào Phật Giáo phục hưng ở thế kỷ thứ hai mươi đã dựa trên cơ sở của môn phái mang tên ông. (Theo Nguyễn Lang – VNPGSL)


Trên dặm đường hoằng hoá


Vào thế kỷ thứ mười tám, khi các chúa Nguyễn mở rộng bờ cõi về phía Nam thì một số cao tăng cũng theo làn sóng di cư đến trác tích tại các miền đất mới. Ở Ðông Phố (Gia Ðịnh), có thiền sư Ðạt Bổn từ Quy Nhơn vào lập chùa Thiên Trường năm 1755. Chúa Nguyễn Phúc Khoát nghe tiếng ông, ban tặng cho chùa biển ngạch đề “Phổ Quang Thiên Sơn Tự”. Sau đó, chùa lại đổi tên là Kim Chương. Thiền sư Quang Triệt lên kế vị ông sau khi ông tịch. Năm 1775, gặp thời nhiễu nhương, Hòa Nghĩa Ðạo Lý tướng quân suy tôn đông cung Nguyễn Phúc Dương lên kế nghiệp chúa Nguyễn để chống nhau với cách mạng Tây Sơn, đã cử hành lễ suy tôn tại chùa này. Vì vậy, sau đó chùa lại được ban sắc tứ là “Kim Chương Tự”. Người tiếp nối Quang Triệt là thiền sư Quang Tuệ. Một ngôi chùa khác cũng được thành lập tại Gia định trong thời chúa Nguyễn Phúc Khoát là chùa Tập Phước. Có lẽ vị tổ khai sơn chùa này là một vị thiền sư đời 36 của dòng Lâm Tế. Theo các linh vị còn để thờ tại chùa thì đời thứ 37 là thiền sư Thánh Ðắc, đời thứ 38 là thiền sư Phước Thường, đời thứ 39 là thiền sư Ấn Thập và đời thứ 40 là thiền sư Hoàng Trí. Trịnh Hoài Ðức từng làm thơ tặng một vị thiền sư tên là Viên Quang tại chùa Tập Phước. Sách Ðại Nam Liệt Truyện Tiền Biên nói rằng thiền sư Viên Quang thuộc đời thứ 36 dòng Lâm Tế nhưng lại nói rằng Viên Quang tu tại chùa Giác Lâm, cũng ở Gia Ðịnh. Có lẽ thiền sư Viên Quang này là người đã khai sơn chùa Tập Phước, sau đó đã giao lại Tập Phước cho đệ tử trông nom rồi dời về chùa Giác Lâm ở cho được thanh tịnh hơn. Giả thuyết thứ hai: thiền sư Mật Hoằng đã khai sơn chùa Tập Phước và đã mời sư huynh mình là Viên Quang đến cư trú với mình. Sau khi Mật Hoằng được triệu về kinh sung chức trú trì chùa Quốc Ân thì Viên Quang cũng về cư trú tại Giác Lâm. Hai thiền sư này đều là đệ tử của thiền sư Linh Nhạc thuộc pháp phái Nguyên Thiều, gốc ở chùa Thập Tháp.


Nhưng các vị du tăng hành đạo còn đi xa hơn là Gia Ðịnh, về thấu các nơi như Biên Hòa, Tây Ninh, Hà Tiên v.v… Ở Tây Ninh chẳng hạn, thiền sư Ðạo Trung khai sơn chùa Linh Sơn ở núi Ðiện Bà vào năm 1763. Ông là đệ tử của thiền sư Ðại Cơ, và thuộc đời thứ tư của môn phái Liễu Quán. Ðại Cơ là đệ tử của Tế Giác, và Tế Giác là đệ tử trực tiếp của Liễu Quán. Ðạo Trung sau 30 năm trú trì tại Linh Sơn, giao sơn môn này cho đệ tử là Tính Thiện và về khai sơn chùa Long Hưng ở Thủ Dầu Một. Ðó là vào năm 1794. Ở Hà Tiên thì có thiền sư Hoàng Lung. Theo sách Ðại Nam Liệt Truyện Tiền Biên, thiền sư Hoàng Lung là người Quy Nhơn. Ông vân du tới tỉnh Hà Tiên. Tại đây thấy núi Bạch Tháp ở phía Bắc đỉnh Vân Sơn núi non quanh co, cỏ cây xanh tốt, ông liền dừng bước hoằng hóa tại đây. Ông tịch năm 1757. Ðệ tử làm lễ hỏa thiêu nhục thân và lập tháp để thờ xá lợi của ông./.


KIêm Đạt




  • Admin (Theo thuvienhoasen.org)

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here