Trang chủ Văn hóa - Lịch sử Thiền sư Thanh Đàm và Pháp Hoa đề cương

Thiền sư Thanh Đàm và Pháp Hoa đề cương

128
0

Thanh Ðàm xuất gia năm 1807, thọ cụ túc giới năm 1810. Ðến năm 1819, ông sáng tác sách Pháp Hoa Ðề Cương tại Liêm Khê Viện. Năm 1843, ông sáng tác sách Tâm Kinh Trực Giải.

Hồi mới xuất gia, một hôm ông hỏi thiền sư Ðạo Nguyên:

– Tâm không phải ở trong thân, cũng không ở ngoài thân, cũng không ở chặng giữa. Vậy tâm rốt cuộc nằm ở đâu?

Ðạo Nguyên mỉm cười xoa đầu ông và cho ông bài kệ:

Ứng dụng theo thời
Gặp vật thấy cơ
Chân tính như như
Trọng ngoài chẳng nên
Tùy thời ứng dụng
Ngộ vật kiến cơ
Tính bản như như
Hà quan nội ngoại).

Ngày thọ giới cụ túc, ông cũng được Ðạo Nguyên cho một bài kệ:

Trán phóng hào quang đâu phải Phật
Dưới chân mây trắng chửa là tiên
Hãy nuôi trâu nọ cho cường tráng
Hôm sớm cày sâu đám ruộng mình.
(Quang phóng mi gian vô đạo Phật
Vân sinh túc hạ vị ngôn tiên
Nhiêu quân bão dưỡng ngưu phi tráng
Triêu tịch thực canh bỉ thốn điền).

Pháp Hoa Ðề Cương

Pháp Hoa Ðề Cương là một tác phẩm biên khảo giá trị. Văn của Thanh Ðàm viết gọn, chen lẫn thơ kệ và có nhiều giá trị văn học. Pháp Hoa Ðề Cương có thể nói là cẩm nang cho người đọc kinh Pháp Hoa. Cũng như có địa bàn trong tay người thủy thủ không còn sợ mất bến mất bờ, có Pháp Hoa "Ðề Cương thì người đọc kinh sẽ nắm được ý chỉ của Kinh. Thanh Ðàm đã đọc Pháp Hoa với con mắt của nhà Thiền học. Ông lại thường hay đối chiếu Pháp Hoa với Lăng Nghiêm và Kim Cương nhận thức của ông về giải thoát được trình bày gọn ghẽ trong bài Bạt nói về năm chữ Diệu pháp Liên Hoa Kinh. Theo ông, Diệu tức là Tâm, là chân tâm sáng suốt tròn đầy. Chân tâm này không thể đạt tới bằng suy tư và nghị luận. Còn Pháp là Căn, Trần và Thức. Căn, Trần, Thức đều do chân tâm lưu xuất. Trong ba thứ: căn, trần và thức thì căn là thứ gần gũi nhất, có thể quán sát để tìm về chân tâm. Không thể chỉ bày Chân Tâm, chỉ có thể chỉ bày dấu vết ứng dụng của chân tâm trên căn tính. Căn tính cũng như mặt trăng thứ hai mà ta trông thấy khi ta dụi mắt, nhưng mặt trăng thứ hai tuy hư vọng nhưng cũng cùng một thể với mặt trăng thứ nhất. Căn tính cũng cùng một thực thể với chân tâm.

Người tu đạo do sự quán sát sự ứng dụng của tâm trên căn trần mà thông đạt tới chân tâm hay là tự tính, và ngộ đạo. Sau đây là những dòng của Thanh Ðàm viết:

"Diệu là chỉ chân tâm thanh tịnh xưa nay, Tâm này từ vô thủy đến nay tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, nơi thánh không thêm, nơi phàm không bớt, lấm không dơ, rửa không sạch, lặng lẽ tròn đầy pháp giới, mênh mông đầy khắp không hư. Tâm là nguồn gốc của chư Phật mà cũng là Phật tính của chúng sinh, nguyên không có tướng trạng và mọi tướng trạng đều từ đó phát hiện, vốn là chân không mà cái không lại cũng từ đấy sinh ra. {Tâm ấy} giống như viên ngọc ma ni trong vắt, không có mầu sắc mà gọi màu sắc có thể tự do xuất phát; cũng như biển giác lặng đầy, ảnh chiếu lục trần mà không nhận một hạt bụi, là họa sư vẽ nên mười pháp giới, là mẹ trí tuệ của tất cả các đức Như Lai. Kinh Hoa Nghiêm có nói:

Nếu ai muốn hiểu biết
Các đức Phật ba đời
Hãy quan sát pháp giới:
Tất cả do tâm tạo.

Mục đích tối hậu của sự tu tập là tâm ấy vậy. Hỏi: Tâm linh diệu như thế làm sao nắm được? Ðáp: Ngôn thuyết và biểu thị không thể nắm được chân tâm. Kinh Pháp Hoa nói rằng:
Thôi, thôi! đừng nên nói
Pháp ta mầu, không nghĩ
Những kẻ tăng thượng mạn
Nghe thấy chẳng kính tin.

Hai chữ "thôi, thôi!" diễn tả được bản thể bất động của Tâm. Ba chữ: "đừng nên nói" có nghĩa là tâm vượt ra khỏi đối tượng của ngôn thuyết và biểu thị. Chữ "ta" chỉ bản tâm của chính mình. Chữ "pháp" chỉ cho sự ứng dụng của tri kiến. Chữ "mầu" chỉ cho sự linh diệu của Tâm, từ Tâm phát sinh ra mọi pháp mà chính tâm thì không có tướng trạng nào hết. Hai chữ "khó nghĩ" có nghĩa là không thể tư duy về Tâm. Tổ sư đã dạy: "Móng Tâm là đã sai, động niệm đã trái", vì vậy cho nên nói "mầu khó nghĩ". "Những kẻ tăng thượng mạn" là ai? Ðó là những người vướng vào tướng, chấp và pháp, những người đang cưỡi trâu mà lại tìm trâu, đem đèn đã cháy mà xin lửa, trên tuyết còn thêm sương. Ðó là những kẻ tự khinh mình, cho rằng cái linh diệu kia chỉ có tổ và Phật mới có, ta chẳng thể nào có được, cho nên mới chạy tìm bên ngoài. "Nghe thấy chẳng kính tin" nghĩa là nếu đã tự khinh mình, cho rằng tâm linh diệu dó không phải của mình, cho nên không biết quý trọng giữ gìn, như đứa con nghèo khó kia(127). Nếu nhận ra được drằng nhà mình có của báu, thì không còn tự khinh cũng cũng không còn nghèo đói. Mỗi phút giây trở về nhìn lại Hào Quang mầu nhiệm, không cần tìm đuổi theo ngôn từ và phân biệt, đó gọi là kẻ biết kính tin. Kính tin lại thêm kính tin, viên ngọc gia bảo mầu nhiệu kia, mầu nhiệm thay, cũng một lúc tất cả chúng ta đều có. Vậy hãy "Thôi, thôi! đừng nên nói!".
Bài tụng về cái Diệu của Diệu như sau:

Không hình không trạng cũng không tên
Mầu nhiệm trong lòng một điểm linh
Thường tịch viên thông soi pháp giới
Bản lai thanh tịnh rạng chân tinh
Từ đây phát hiện nên Chư Phật
Do đấy thành ra có chúng sinh
Ðứa con nghèo khổ lưu linh mãi
Quên mất người cha của tự mình.

Pháp là tất cả mọi vật, là sự ứng dụng của Diệu Tâm. Diệu Tâm là nguồn thiêng của mọi vật. Pháp là Tâm, Tâm là Pháp. Pháp là tùy duyên của Diệu Hữu – khi không nhiễm thì gọi là diệu pháp. Tâm là ứng vật của Chân Không, nên không vướng vào trần thì gọi là chân tâm. Mượn cái gì mà nói được về chân tâm? Nói về diệu pháp thế nào để không ngăn ngại sự tu chứng? Các pháp môn để tu chứng thì nhiều vô lượng, ta phải tìm pháp môn nào gần nhất để đi vào… Vả lại các pháp tuy vô số mà bất quá đều quy về căn, trần và thức. Ba thứ này đều do Diệu Tâm hiển hiện, cho nên thường nói "pháp từ tâm sinh khởi, tâm là nguồn pháp". Một niệm nghĩ lúc ban sơ đã khiến cho biến hóa vạn cách, trôi nổi liên tiếp, sinh diệt luân hồi, cho mãi đến bây giờ vẫn còn đuổi theo vọng tưởng, quên mất chân tính, giống như anh chàng Diễn Nhã(128) quên đầu nhận bóng. Nay muốn khai thị và đốn ngộ nguồn tâm thì trước hết phải biết thức là huyễn ảnh, trần là hoa đốm hư không, cả hai thứ đều không tự sử dụng làm căn cứ để tu hành; phải lấy căn làm phương tiện gần gũi để tu tập. Tại sao vậy? Tại vì trần không có tự thể. Thức cũng không có tự thể thực hữu, nhờ trần cho nên mới sinh diệt và qua lại được. Ðã sinh diệt qua lại tức là vô thường. Chỉ có căn tính mới là thường tại, nên Phật bảo căn tính này là Diệu Căn, Căn Pháp là Diệu Pháp. Căn Pháp dù cũng do tâm hiện ra, như mặt trăng thứ hai cùng với mặt trăng thứ nhất là một, lúc đè mí mắt thì có, lúc biết thì không có, thế thôi. Khi có vọng tưởng thì căn tính là chân tâm thứ hai vậy. Khi ở trong trạng thái vô tướng linh tri, thì chân tâm là cái chân tâm thứ nhất. Tuy vậy căn tính và linh tri cùng một thể, chỉ khi mê thì thấy có căn tính, khi ngộ thì căn tính không còn. Căn tính ấy cũng là một với bản tâm thanh tịnh xưa nay, không hư huyễn như Trần và Thức. Cho nên Pháp chỉ bày rằng căn tính là nhân địa gần nhất cho sự tu hành, khiến cho chúng sinh có thể đi vào chân tâm bằng cánh cửa căn tính; vào dòng, trở nên đầu nguồn, thấy được tâm thể xưa nay của mình. Hỏi: Tại sao không chỉ thẳng cái thứ nhất là Diệu tâm xưa nay; mà lại chỉ cái thứ hai là Căn Tính để làm phương tiện tu hành? Ðáp: Tâm vốn vô hình, làm sao mà chỉ?

Trước kia tôi đã nói một lần rồi: ngôn thuyết và biểu thị không nắm được Tâm. Tuy vậy, dù Tâm vô hình, nhưng sự ứng dụng của căn lại có vết tích, vì có vết tích nên có thể chỉ bày, khiến cho người tu học có thể nhìn vết tích của sự ứng dụng, do ánh sáng ấy mà về được Tâm.
Hỏi: Dấu vết ấy ở đầu?

Ðáp: Ở trên đối tượng lục trần. Do sức mà có cái thấy, do thanh mà có cái nghe: lục trần là dấu vết ứng dụng của lục căn. Nay muốn nắm được dấu vết của thì phải quán sát cái thấy cái nghe nơi đối tượng sắc thanh. Nên biết rằng công dụng của Căn là công dụng của Tâm, căn nhận thức là tâm nhận thức; cái khác nhau là căn có sáu công dụng mà tâm chỉ có một bản thể tinh minh. Các Ðức Phật truyền cho nhau căn pháp này, các vị tổ truyền nhau Tâm Tông ấy ấy. Ðó là bí quyết mà các kinh chỉ bày để đắc căn bản trí. Pháp ấn truyền giữ qua các thời đại cũng lấy cái ấy để phát giác sơ tâm. Chứng ngộ mau hay chậm là vì căn cơ rộng hay hẹp. Nên biết rằng pháp này được đặt tên tùy theo trương hợp và địa phương, tuy sai biệt vô cùng mà cũng chỉ là pháp ấy. Lại cũng nên biết là danh hiệu của chư Phật và đề mục của các kinh cũng đều là biệt hiệu của pháp ấy.

Hỏi: Tâm ấy làm sao mà trao truyền?

Ðáp: Ðức Thế Tôn đưa lên một nhành hoa, Ca Diếp mỉm cười, sau đó các tổ truyền lại, giữ gìn, trường hợp khác nhau, chỉ có người giác ngộ mới tự biết lấy.

Hỏi: Tu trì làm sao?

Ðáp: "Thôi, thôi!" đó là phương pháp; thiền sư Ðạo Xuyên nói:

Tri âm, tự khắc từng theo gió
Trăng trong gió mát đất trời nhàn.

Lại nói:

Nắm được ở tâm
Ứng được ở tay
Tuyết gió hoa trăng
Trời đất lâu dài
Cứ hễ canh năm gà gáy sáng
Xuân về hoa núi nở ngàn nơi.

Hỏi: Mục đích tối hậu là gì?

Ðáp: Phổ Hóa hòa thượng nói: "Tìm chỗ đi tới không được". Và bài kệ nguyện trong kinh Hoa Nghiêm cũng nói:

"Nghiêng mình làm lễ trước biển Chân Tính Hoa Nghiêm và trước tất cả các bậc quang minh biến chiếu trước thế giới trang nghiêm do hạnh nguyện Phổ Hiền thiết lập và trước kho tàng pháp giới Chân Như".

Thôi xin chào, xin chào! Có bài kệ về pháp của Pháp như sau:

Vạn pháp tuy nhiều không đếm xiết
Chung quy cũng chỉ Thức Căn Trần.
Huyễn duyên dư ảnh dù không thực
Chân tri chính kiến vẫn bao dung
Gặp thầy chỉ dạy đường mê ngộ
Thấy Phật tìm ra lẽ sắc không
Nếu muốn lên mà bờ bến giác
Con đường trước mặt chớ lần khân.

Bát Nhã Trực Giải

Bát Nhã Trực Giải là một tác phẩm nhằm giải thích Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða. Tác phẩm này cũng chứa đầy thi, kệ và tán như tác phẩm trước. Tâm Kinh được xét dưới bốn khía cạnh: tín (đức tin), giải (sự thông hiểu), hành (sự thực hành) và chứng (sự đạt đạo). Thiền sư Thanh Ðàm phân tiách kinh ý ra mười mục như sau:

1- Ðề mục
2- Chính nhân
3- Hạnh môn
4- Khai thị
5- Thực tướng
6- Tảo nhị chấp
7- Vô sở đắc
8- Tịch diệt
9- Tu chứng
10- Nguyện mãn

Sau đó, Thanh Ðàm giải thích bài kệ Bát Nhã của Cổ Ðức, bàn về Lục Căn, Thấtt Ðại.

Ðề Án Tham Cứu

Thiền sư Thanh Ðàm chịu ảnh hưởng rất sâu đạm bài kệ đầu tiên mà Ðạo Nguyên trao cho mình, cho nên tất cả phương pháp tu hành mà ông chỉ bày nằm gọn trong các chữ "Tùy thời ứng dụng", "Ngộ vật kiến cơ". Ông đã hiểu tám chữ đó trong ánh sáng của Pháp Hoa, Lăng Nghiêm và Bát Nhã. Ông đề ra ba công án sau đây để giúp độc giả của ông tham cứu về Chân Tâm:

1- Thế Tôn xuất thế bởi vì đâu?
Tuyên thuyết Liên Hoa pháp nhiệm mầu.
Thử hỏi cả đời sao chửa nói?
Gần khi nhập diệt mới truyền trao?
(Thế Tôn xuất thử dĩ hà duyên?
Chỉ vị liên hoa đại sự yên
Hà nãi trung gian do vị thuyết
Niết Bàn tương cận thủy ban tuyên?

2- Từ Tây phương đến chỉ tâm tông
Sao chín năm luôn mặt úp tường?
Có phải vì căn cơ chửa chín?
Chín rồi mới hiện lộ chân không?
(Tây lai trực vị chỉ tâm tông
Hà nãi cửu niên diện bích trung?
Tất dã đầu cơ cơ vị thục,
Thục thời nhiên hậu hiển chân không?)

3- Huệ Năng được ấn pháp Kim Cương
Sao phải chạy về Nam Lĩnh Dương?
Không ở ngay đây truyền pháp ấn?
Biết đâu chân tính vẫn mơ màng!
(Huệ Năng đắc pháp ấn Kim cương
Hà Nãi triền quy Nam Lĩnh Dương
Bất đán vị tha tuyên pháp ấn
Cái tri nhân tính thượng mê mang)

Ba nghi vấn đưa ra để tham cứu:

1) Tại sao Phật phải đợi đến lúc gần nhập diệt mới chịu thuyết kinh Pháp Hoa?

2) Bồ Ðề Ðạt Ma qua Ðông Ðộ để chỉ bày tâm tông, tại sao lại ngồi nhìn vách chín năm, hay là tại chưa thực sự giác ngộ?

3) Huệ Năng nếu quả thật đắc pháp ấn với Ngũ Tổ, tại sao không ở ngay đó để hoằng đạo mà lại chạy về Lĩnh Nam?

Ba đề tài trên đây tuy vậy còn mang tính chất suy luận. Công án sau đây có lẽ mới là công án mà thiền sư Thanh Ðàm ưa thích và sử dụng. Ta có thể gọi nó là công án Thần Ðà(129)

Niêm: Hay lắm, Thuần Ðà
Hay lắm, Thuần Ðà

Tụng:

Không nói ngắn, chẳng nói dài
Ngắn dài tốt xấu thảy đều sai
Tìm hay, lại hóa người chê vụng
Bắn sẻ, ai dè sói chực ngay
Công danh cái thế màn sương sớm
Phú quý kinh nhân giấc mộng dài
Chẳng hiểu "bản lai vô nhất vật"
Công lao uống phí một đời ai.

Bài thơ ngộ nghĩnh nhất của Thanh Ðàm là bài thơ Tìm Tâm, có âm hưởng tiếng trống đánh:

Ngang lưng đeo trống đối tri âm
Duỗi thẳng hai tay, đánh trống tâm:
Tập tập tìm tâm, tâm tất tập
Tìm tâm, tâm tập, tập tìm tâm.
Âm thanh hợp vận, âm tùng họa:
Tịch chiếu Tâm Tông, tức tập tầm.
Trăng sáng, gió thanh thường tự tại
Tìm tâm chẳng được, nghỉ tìm tâm.
Thôi nhé, tâm ta chẳng thể tầm
Tìm tâm dẫu được, chẳng chân tâm
Mang đèn xin lửa thêm điên đảo
Thà đứng bên sông hát khúc ngâm.
(Kiên kình yêu cổ đối tri âm
Thư thủ vô vi phách cổ tâm
Tập tập tầm tâm tâm tắc tập
Tầm tâm tâm tập, tập tầm tâm
Cổ thanh hợp vận dùng thanh họa
Tịch chiếu tâm tông tức tập tầm
Minh nguyệt thanh phong trường tự tại
Tầm tâm bất đắc, tức tầm tâm.
Chỉ chỉ! Ngô tâm bất khả tầm
Tầm tâm túng đắc tắc phi tâm
Tương đăng cầu hỏa tự điên đảo
Bất nhược sogn tiền thủ nhất ngâm).

Thiền sư Thanh Ðàm cũng thuộc pháp phái Trúc Lâm. Cuối tác phẩm Pháp Hoa Ðề Cương, ông có nêu lên hai câu kệ "Lục Căn Thất Ðại" của Trúc Lâm Ðiều Ngự và căn cứ vào đó làm ra mười ba bài kệ về lục căn và thất đại. Hai câu ấy như sau:

"Lục căn hư vọng, vô phi bồ đề diệu tâm
Thất đại biến chu, tận thị Như Lai tạng tính"
(Sáu căn hư vọng, mà căn nào cũng là diệu tâm giác ngộ,
Bảy đại trải khắp, đều là tạng tính Như Lai)

Một lần nữa ta thấy ông nhấn mạnh tới nguyên tắc "Căn Tính và Diệu Tâm là một".

(Theo sách Việt Nam Phật giáo sử luận)

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here